Tác giả: Erick Wilberding
Thuỳ chỉnh lại dựa trên bản dịch của Thủy Tiên Hoàng
Socrates, một trong những cha đẻ của triết học phương Tây, bị đưa ra xét xử. Nhiều người dân Athen tin rằng ông là một phần tử nguy hiểm, buộc tội ông vì đã làm hỏng thế hệ trẻ và đã chối bỏ các vị thần của họ. Tuy nhiên, không phải người ta sợ Socrates vì ông biết mọi câu trả lời, mà vì ông có quá nhiều câu hỏi.
Chán ghét những bài giảng chính quy, nhà triết học này thường lôi kéo bạn bè thân thiết và cả người lạ vào những cuộc nói chuyện dài hơi về đạo đức và xã hội. Những cuộc thảo luận không có tiếng cãi vã và Socrates cũng chẳng có lời khuyên gì. Thực tế, nhà triết học này thường quả quyết rằng mình chẳng biết gì sất, ông chỉ đáp lại ý kiến của những người bạn bằng nhiều câu hỏi hơn. Nhưng qua quá trình này, ông đã thăm dò logic của họ, chỉ ra những sai sót và giúp cả hai bên hiểu thấu mọi việc hơn. Những câu hỏi sâu sắc khiến Socrates được tín đồ của mình yêu quý. Hai học trò của ông, Plato và Xenophon, là những người được truyền cảm hứng nhiều đến mức họ tạo ra các cuộc đối thoại hư cấu sử dụng phương pháp này của thầy mình. Đây là ví dụ hoàn hảo về cái mà sau này chúng ta gọi là Phương pháp Socrates. Trong những cuộc đối thoại hư cấu này, Socrates đang trò chuyện với một thanh niên tên là Euthydemus, kẻ tự tin rằng mình hiểu bản chất của công lý và bất công. Socrates thăm dò hắn bằng cách yêu cầu phân loại các hành động chẳng hạn như nói dối và trộm cắp là chính nghĩa hay phi nghĩa. Euthydemus tự tin phân loại chúng là phi nghĩa, nhưng điều này gợi ra một câu hỏi khác: vậy một vị tướng thực hiện hành vi lừa dối hay cướp bóc kẻ thù thì sao? Euthydemus sửa lại câu trả lời. Anh cho rằng những hành động này được phép thực hiện với kẻ thù, nhưng là phi nghĩa với bằng hữu. Nhưng Socrates vẫn chưa dừng lại. Ông hỏi người thanh niên về việc một chỉ huy nói dối quân lính của mình để lên dây cót tinh thần cho họ. Chẳng bao lâu sau, Euthydemus chán nản. Xem chừng mọi câu trả lời đều dẫn tới những vấn đề khác, và có lẽ anh ấy cũng không chắc rốt cuộc điều gì tạo nên công lý.
Bằng cách sử dụng cách tiếp cận dựa trên câu hỏi định hướng, Socrates tự ví mình như một bà đỡ, giúp người khác nảy sinh những ý tưởng mới. Đây là phương pháp đặt ra câu hỏi dựa trên các giả định cá nhân chưa được kiểm chứng và sau đó thách thức những thành kiến đó. Không phải lúc nào cũng có những câu trả lời rõ ràng, nhưng phương pháp này giúp làm rõ những câu hỏi và loại bỏ các logic mâu thuẫn hoặc vòng quanh. Và bằng cách tuân theo một dòng chảy dẫn đến những điều logic, cả người hỏi lẫn người đáp đều có thể kết thúc ở những điểm không ngờ tới.
Kĩ thuật này không bị giới hạn bởi nội dung cuộc đối thoại, khiến nó hữu dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Suốt thời kỳ Phục Hưng, phương pháp này được dùng để giảng dạy y học lâm sàng. Sinh viên đề xuất cơ sở lý luận cho các chẩn đoán khác nhau, các bác sĩ sau đó sẽ đặt câu hỏi dựa trên những giả định của họ và thảo luận có kiểm soát. Theo mô hình này, phương pháp thậm chí có thể đưa ra kết quả chính xác. Cách tiếp cận tương tự sau đó cũng được dùng trong nhiều ngành khoa học khác như là thiên văn học, thực vật học và toán học. Sau cuộc Cải cách Tin lành, nó được điều chỉnh để giải quyết những câu hỏi trừu tượng về đức tin. Vào thế kỷ 19, phương pháp này trở thành một phần quan trọng trong nền giáo dục hợp pháp của Hoa Kỳ. Các giáo sư khám phá sự hiểu biết của sinh viên về lý luận tư pháp bằng cách thử thách họ với những tình huống giả định khó đoán. Cách tiếp cận này vẫn còn được sử dụng tại các Tòa án Tối Cao để giả định những tác động ngoài ý muốn khi thông qua một đạo luật nào đó.
Phương pháp Socrates có thể được áp dụng để dạy hầu hết mọi chủ đề dựa trên lý luận phê bình, nhưng thành công của nó tùy thuộc vào việc giáo viên áp dụng ra sao. Một nhà giáo dục Socrates hiệu quả phải thật am hiểu về chủ đề của mình. Thay vì dọa nạt học sinh hoặc khoe khoang tri thức, họ nên khiêm tốn, ham học hỏi, và luôn muốn cống hiến.
Về vấn đề này, chính Socrates có thể không phải là giáo viên Socrates tinh tế nhất. Các nhà sử học tin rằng ông đã phê phán một nhánh của nền dân chủ tại Athens, và rồi truyền bá tư tưởng này cho những môn đồ. Những niềm tin nổi loạn này đã bị bóp méo trong các diễn đàn cộng đồng và được cho là đã truyền cảm hứng cho hai đệ tử của mình phản thầy. Chính vì những ý tưởng này, Socrates đã bị mang ra xét xử, và kết thúc bằng việc nhận án tử hình. Nhưng ngay trước khi qua đời, ông vẫn được cho là khá thanh thản – luôn tò mò muốn khám phá câu hỏi đến tận cùng.



Bình luận về bài viết này