Tác giả Joel Dimsdale. Dr. Dimsdale là giáo sư danh dự về tâm thần học tại Đại học California, San Diego. Đây là tiểu luận được rút ra từ cuốn sách mới của ông có tên là “Dark Persuasion: A History of Brainwashing from Pavlov to Social Media,” được nhà xuất bản đại học Yale xuất bản ngày 16/8/2021.
Thuỳ biên dịch từ tiểu luận đăng trên tờ The Wall Street Journal ngày 7/8/2021

Từ đầu thế kỷ 20, tên tuổi của nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov đã được gắn liền với ý tưởng về tẩy não. Pavlov thực hiện các thí nghiệm điều khiển hành vi của chó, trong đó ông huấn luyện cho chó tiết nước bọt để phản ứng với tín hiệu tiếng chuông. Các thí nghiệm này cho thấy rằng não có thể bị huấn luyện để tự động phản ứng với các kích thích. Pavlov cũng đã hình dung đến viễn cảnh khoa học có thể thao túng bộ não một cách trực tiếp. Ông đã viết rằng: “Nếu chúng ta có thể nhìn xuyên qua hộp sọ, vào sâu bên trong não của một người đang ở trạng thái minh mẫn… chúng ta sẽ có thể thấy bên dưới bề mặt não là một điểm sáng với những đường viền kỳ diệu đang uốn lượn, liên tục dao động về kích thước và hình thức, và được bao quanh bởi một vùng bóng tối, sâu, phủ lên phần còn lại của các bán cầu não.” Đoạn văn này mô tả những hiểu biết của chúng ta về thần kinh hiện đại chính xác một cách kỳ lạ.

Chúng ta vẫn chưa có một bản đồ não chính xác chỉ ra các khu vực cụ thể nào phụ trách những loại cảm xúc hay suy nghĩ nào. Rất khó để hình dung được cần phải bắt đầu từ đâu nếu chúng ta muốn phẫu thuật não để buộc ai đó tiết lộ một bí mật, hoặc để thuyết phục người đó bầu cử cho một ứng viên nào đó. Nhưng kể từ thời của Pavlov cho đến nay, khoa học đã tiến rất gần đến việc cho phép kiểm soát trực tiếp bộ não bằng phương pháp vật lý. Trong thế kỷ này, những hiểu biết sâu sắc về khoa học thần kinh trong lĩnh vực trí nhớ, nhận thức, niềm vui và nỗi đau có thể biến việc cưỡng chế kiểm soát bộ não trở thành hiện thực.

Nhà tâm lý học James Olds (1922-76), một trong những người sáng lập khoa học thần kinh hiện đại, đã tiến hành một thí nghiệm tại Đại học McGill năm 1953, trong đó ông đã cấy các điện cực vào sâu trong não chuột và quan sát các phản ứng của chúng với các kích thích điện tại nhiều vị trí khác nhau. Ông khám phá ra phát hiện quan trọng nhất của mình từ một tai nạn: ông đã bỏ sót một vị trí cấy điện cực trong não của một con chuột. Sau khi hồi phục lại từ cuộc phẫu thuật, con vật được đặt trong một căn phòng đặc biệt. Mỗi lần nó đi đến một góc của căn phòng, nó nhận được một lượng điện nhỏ kích thích lên não, mỗi góc phòng kích thích một vùng não khác nhau. Con chuột này liên tục lui tới một góc phòng đặc biệt, thậm chí bỏ cả ăn để ở đó nhằm được kích thích vùng não đó.

Olds suy đoán rằng con vật thấy thích thú khi tiếp nhận cú shock điện tại vùng não đó. Tiếp theo, ông bắt đầu huấn luyện con chuột này đi đến những điểm khác nhau trong căn phòng hoặc rẽ trái hoặc rẽ phải để có thể nhận được kích thích điện mà nó mong muốn. Sử dụng kỹ thuật này, Olds có thể khiến con vật thực hiện các hành vi phức tạp một cách dễ dàng. Ông quan sát thấy rằng “nếu để cho con vật tự do tiếp nhận kích thích, nó có thể liên tục kích thích não của mình lên đến 5000 lần một giờ.”

Khả năng điều khiển bộ não bằng phương pháp này có vẻ là vô hạn, nhưng liệu nó có hiệu quả với người không? Bác sĩ tâm thần Robert Heath (1915-99), đại học Tulane, đã thực hiện các nghiên cứu trên người với các bệnh nhân, bao gồm bệnh nhân mang mã B-7, một người nam 28 tuổi mắc chứng ngủ rũ (narcolepsy) nặng. Bác sĩ Heath cấy một loạt điện cực vào các vùng não khác nhau của bệnh nhân này và hỏi anh ta cảm thấy thế nào khi các vùng não này được kích thích. Một khu vực tạo ra cảm giác khó chịu đến mức bệnh nhân đã cố tình bẻ nút kích thích để không bao giờ phải trải qua cảm giác đó nữa.

Mặc dù vậy, những cảm giác xuất hiện khi kích thích một vùng não khác lại cực kỳ thú vị. Bệnh nhân phát hiện ra rằng anh ta có thể ngăn một cơn ngủ rũ tạm thời bằng cách tự kích thích; anh ta đã có thể điều khiển các triệu chứng rất tốt đến mức lần đầu tiên trong đời anh ta có thể kiếm được việc làm. Lần nọ, anh ta ngủ gật quá nhanh nên không thể tự mình nhấn nút, bạn bè của anh ta đã khám phá ra rằng họ có thể đánh thức anh ta dậy một cách nhanh chóng bằng cách nhấn cái nút đó.

CIA đã từng mời Heath cộng tác để nghiên cứu hệ thống điều khiển cảm giác khoái lạc và đau đớn của não. Nhưng ông đã từ chối lời mời. Trong một cuộc phỏng vấn với New York Times năm 1977, ông nói: “Nếu tôi muốn làm điệp viên thì tôi đã đi làm điệp viên rồi. Nhưng tôi muốn làm bác sĩ và hành nghề y.” Các nghiên cứu này, phần lớn được thực hiện vào những năm 1960 và 1970 tại Mỹ, phần lớn đã bị ngưng hoạt động vì các lo ngại về đạo đức.

Mặc dù vậy, các kỹ thuật giải phẫu thần kinh cơ bản vẫn tiếp tục được phát triển. 50 năm sau khi Heath công bố nghiên cứu của mình, các thủ thuật trở nên ít xâm lấn, ít rủi ro hơn và có thể áp dụng cho một số khu vực cụ thể của não. Việc cấy ghép các máy kích thích não sâu (deep-brain stimulator – DBS) được thực hiện trên hàng ngàn người mắc chứng Parkinson để giúp điều khiển chuyển động cơ của họ. Nó cũng được thực hiện trên những bệnh nhân mắc các chứng bệnh khác như đau và động kinh. Người ta vẫn đang rất quan tâm đến việc sử dụng các biện pháp như vậy trên các vùng não khác nhau để điều trị cho các bệnh nhân rối loạn tâm thần, đặc biệt là đối với các bệnh nhân mắc chứng trầm cảm kháng trị (treatment-resistant depression).

Kích thích não sâu đòi hỏi phẫu thuật tốn kém và thiết bị đắt tiền, thích hợp cho cá nhân nhưng khó lòng phù hợp cho các can thiệp nhóm. Vậy thì có phương pháp nào để có thể kích thích một nhóm người mà không cần phải cấy ghép máy kích thích vào não họ không? Trong cuốn sách có tên “Cults in Our Midst” (Tạm dịch: Những giáo phái của chúng ta) của nhà tâm lý học Margaret Singer, bà đã mô tả thuật ngữ “love bombing” (tạm dịch: đánh bom tình yêu) – một kỹ thuật truyền giáo được nhiều giáo phải sử dụng, trong đó những người được chiêu mộ nhận được rất nhiều lời tâng bốc và tán dương để họ cảm thấy được chào đón và an toàn.

Tương đương với nội tiết thần kinh liên quan đến một loại hormone có tên là oxytocin được tạo ra từ sâu trong não. Não sẽ giải phóng oxytocin khi người ta kết nối sâu sắc với nhau. Đôi khi nó được gọi là hormone tạo cảm giác dễ chịu. Nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng, loại hormone này được tiết ra nhiều khi cho con bú và quan hệ tình dục. Các nghiên cứu sau đó cho thấy oxytocin cũng được tạo ra trong những tình huống khác có sự gần gũi – cầu nguyện, chơi các môn thể thao đồng đội, và thậm chí khi một người chủ vuốt ve thú cưng của mình, oxytocin cũng được tạo ra.

Nhưng oxytocin cũng có mặt tối của nó. Các thí nghiệm đã phát hiện ra rằng nó có thể tạo ra sự tin tưởng và hợp tác trong một nhóm, đổi lại, sự tin tưởng đối với những người ngoài nhóm bị giảm đi rất nhiều. Hiện nay, cách hiệu quả nhất để điều chỉnh nồng độ oxytocin là thông qua xịt mũi, nhưng nếu có thể điều chỉnh nồng độ của loại hormone này thông qua đường uống hoặc bình xịt, nó có thể được sử dụng trong nhóm để tăng cường sự gắn bó của các thành viên, và do đó chiêu mộ thêm những thành viên tiềm năng cho một giáo phái hoặc đảng phải. Người ta có thể sẵn sàng tham gia một nhóm hoặc tiếp nhận một niềm tin mới nếu họ được phép tiếp nhận các kích thích tạo khoái lạc. Chúng ta có thể thấy rõ ràng là người nghiện không ngại làm bất cứ điều gì để thỏa mãn cơn nghiện của họ cả.

Ở mặt bên kia của đồng xu, người ta cũng có thể từ bỏ niềm tin cũ hoặc bản thể của chính họ để thoát khỏi các kích thích gây đau đớn, như trường hợp bệnh nhân B-7 bẻ gãy nút kích thích của mình. Khi bộ phim “A Clockwork Orange” được công chiếu vào năm 1971, khán giả đã phải sửng sốt trước những miêu tả về sức mạnh của các phương pháp điều chỉnh hành vi gây đau đớn. Sự tiến bộ của khoa học thần kinh có nghĩ là những kỹ thuật như vậy không còn chỉ là tưởng tượng nữa. Cho đến nay, nó chỉ được kiểm soát bởi quy định của chính phủ và ý thức đạo đức của các chuyên gia y tế. Nhưng các chính phủ luôn tìm kiếm các loại vũ khí mới, và lịch sử đã cho thấy rằng sẽ luôn có những nhà nghiên cứu làm ngơ với các tác động tiêu cực từ các nghiên cứu của họ hoặc biện minh rằng đó là cách để bảo vệ xã hội trước những mối nguy tiềm tàng. Khả năng tự kiềm chế của các nhà khoa học không phải lúc nào cũng có thể bảo vệ được chúng ta trước những nguy cơ đen tối từ các cưỡng bách khoa học.

Bình luận về bài viết này

Quote of the week

What should young people do with their lives today? Many things, obviously. But the most daring thing is to create stable communities in which the terrible disease of loneliness can be cured.

~ Kurt Vonnegut

Nếu thấy các bài viết hay và hữu ích, hãy mua cho Thuỳ một ly Marou