Khi quay video thông thường, âm thanh và hình ảnh đi cùng với nhau, và khi phát lại, âm thanh và hình ảnh đã được đồng bộ hoá một cách hoàn hảo. Nhưng khi quay phim hoặc video với một bộ thu âm rời, bạn sẽ cần đồng bộ hóa hình ảnh và âm thanh trong hậu kỳ để chúng khớp nhau một cách chính xác. Có rất nhiều phương pháp để giúp cho quá trình đồng bộ hoá này diễn ra dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Một số người dùng slate hoặc timecode. Hoặc không cần dùng đến cả hai cái này. Cần lưu ý rằng mặc dù tất cả các hệ thống này hỗ trợ bạn đồng bộ hóa hình ảnh và âm thanh trong hậu kỳ, thì kể cả khi bạn không dùng nó khi quay, hoặc khi nó bị lỗi đi chăng nữa, bạn vẫn có thể đồng bộ hoá mà không cần đến nó (mặc dù có thể sẽ chậm hơn một chút).
Slate truyền thống
Vì việc đồng bộ hoá liên quan đến việc sắp xếp âm thanh và hình ảnh, sẽ dễ dàng hơn nếu có một sự kiện riêng biệt có thể nhìn thấy rõ ràng trong hình ảnh và nghe thấy trên track âm thanh. Ví dụ, việc đóng cửa xe cũng có thể được sử dụng thay cho slate. Slate là một sự kiện trong hình ảnh và âm thanh được sử dụng phổ biến để hỗ trợ đồng bộ hoá.
Thiết bị slate truyền thống là clapper board. Bạn cũng có thể dùng một ứng dụng trên điện thoại hoặc máy tính bảng để làm slate, nó vẫn tuân thủ nguyên tắc cơ bản là ghi lại khoảnh khắc mà hai miếng gỗ đánh vào nhau (ảo) và sau đó dùng nó để khớp hình và tiếng trong hậu kỳ. Ưu điểm của slate truyền thống là nó cực kỳ đơn giản và không thể mắc sai lầm được. Điểm bất lợi là tốc độ đồng bộ hoá tương đối chậm, đôi khi người dùng mất khá nhiều thời gian trong phần mềm dựng hoặc telecine để xác định vị trí của slate trong đường tiếng và đường hình, sau đó kéo chúng lại cho khớp với nhau.
Khi quay phim tài liệu hay bất cứ tình huống quay nào mà bạn không có slate vật lý, bạn có thể slate bằng cách gõ nhẹ lên mic một hoặc hai lần, hoặc thậm chí là búng ngón tay hoặc vỗ tay.
Khi bạn đánh slate, không bao giờ được tắt máy quay hoặc recorder giữa đoạn slate và cảnh phim, như những người mới vào nghề đôi khi vẫn làm.
Hệ thống Timecode
Hãy đọc về Timecode ở đây trước khi đọc tiếp phần này.
Để hiểu cách hệ thống timecode hỗ trợ cho quá trình đồng bộ hóa hình ảnh và âm thanh như thế nào, hãy bắt đầu từ tình huống quay đơn giản nhất với một máy quay và không có thiết bị thu âm riêng. Hầu hết các máy quay đều có khả năng tạo ra một loại timecode nội bộ. Các thiết bị chuyên nghiệp thường hỗ trợ SMPTE timecode; thiết bị không chuyên thường dùng một bộ đếm khung hình đơn giản hoặc sử dụng hệ timecode time-of-day (TOD).
Bạn quay một số cảnh quay và sau đó dựng với một phần mềm dựng (NLE). Khi bạn đưa cảnh quay vào timeline của một NLE, phần video của clip đó sẽ nằm trên một track riêng và phần âm thanh của clip đó nằm tương ứng trên một track khác. Phần hình ảnh và âm thanh sẽ có timecode nhúng giống hệt nhau, vì vậy nếu như vì sao đó mà đường hình và đường tiếng bị lệch nhau trong quá trình dựng thì bạn có thể dễ dàng và nhanh chóng chỉnh lại ngay trên timeline.
thiết bị thu âm bên ngoài. Nếu các file hình của máy quay và file tiếng từ thiết bị thu âm có cùng timecode, bạn có thể đưa phần hình và phần tiếng vào NLE và sau đó sắp xếp chúng theo timecode, và nhanh chóng đưa chúng về trạng thái được đồng bộ hoá. Rất nhiều NLE có thể tự động làm điều này cho bạn.

Vậy làm thế nào để máy quay và thiết bị thu âm ghi cùng timecode? Lý tưởng nhất là một trong hai thiết bị có thể gửi timecode cho thiết bị kia, hoặc cả hai cùng nhận timecode từ một thiết bị thứ ba. Máy quay và thiết bị thu âm có thể xuất hoặc nhận những loại timecode khác nhau. Các máy quay chuyên nghiệp cao cấp thường có một cổng TC In/Out, cho phép chung chia sẻ timecode với một thiết bị thu âm hoặc máy quay khác thông qua dây kết nối hoặc kết nối không dây. Nhưng các máy quay không chuyên và bán chuyên thường không có cổng này. Mặc dù vậy, vì timecode có thể được truyền dưới dạng tín hiệu âm thanh (nó nghe giống như một chuỗi tiếng lách cách hoặc vo vo ở tốc độ cao), bạn có thể gắn một thiết bị tạo timecode với máy quay hoặc thiết bị thu âm, và gửi tín hiệu timecode dưới dạng âm thanh (đôi khi được gọi là LTC) thông qua một trong số các track âm thanh bình thường. Người ta thường dùng kỹ thuật này với máy DSLR, mirrorless hay bất kỳ các thiết bị nào khác không có cổng timecode. Nó cũng vẫn là SMPTE dù bạn đưa nó vào qua cổng TC in trên một máy quay chuyên nghiệp hay qua cổng mic input trên một máy quay không chuyên, nhưng cái trước được thực hiện ở line level còn cái sau thì ở mic level thấp hơn.
Có nhiều cách để cấu hình cách chia sẻ timecode giữa các thiết bị. Việc dùng phương pháp nào thì còn tùy thuộc vào thiết bị mà bạn có và nhu cầu của production. Dưới đây là một số giải pháp thông dụng.

Khi nhiều thiết bị khác nhau cùng chia sẻ timecode với nhau, bạn cần phải đảm bảo rằng timecode chạy liên tục chứ không bắt đầu và dừng lại theo máy quay. Điều này có nghĩa là cần chọn chế độ time-of-day hoặc free-run (một số production cài đặt free-run thành 00:00:00:00 khi bắt đầu mỗi ngày quay). Cài đặt tất cả thiết bị về cùng một loại timecode (và đảm bảo rằng tất cả đều dùng chung drop frame hoặc nondrop).
Thông thường, một thiết bị sẽ được dùng làm master, timecode từ thiết bị này sẽ được áp cho tất cả các thiết bị khác. Trong các workflow chuyên nghiệp, người ta thường dùng timecode đầu ra của thiết bị thu âm làm master. Hoặc bạn cũng có thể dùng một thiết bị tạo timecode từ Deity Microphones, Ambient, Denecke, Tentacle Sync, và Timecode Systems. Một bộ thiết bị tạo timecode có thể nhận timecode từ một thiết bị master. Các thiết bị tạo timecode có nhiều mức giá và kích thước khác nhau, một số rất nhỏ và có giá cả phải chăng.
Để toàn bộ hệ thống có cùng timecode, các thiết bị không nhất thiết phải liên tục kết nối với nhau. Thay vào đó, nhiều thiết bị có thể jam-sync, có nghĩa là về cơ bản, một thiết bị sẽ chèn timecode của nó lên các thiết bị khác, sau đó ngắt kết nối, và thiết bị được nhận timecode sẽ dùng timecode này cho đến khi nó bị tắt nguồn. Vì vậy, bạn có thể chèn timecode từ một thiết bị thu âm lên một thiết bị tạo timecode và dùng thiết bị tạo timecode này để gửi timecode đến một slate thông minh hoặc đến một máy quay. Hoặc bạn có thể chèn timecode từ một thiết bị tạo tạo timecode lên một thiết bị tạo timecode khác, sau đó mỗi thiết bị tạo timecode lại được kết nối với một máy quay hoặc thiết bị thu âm khác và cung cấp cùng một timecode cho các thiết bị này. Các thiết bị chèn timecode không nhất thiết phải giao tiếp với nhau liên tục để duy trì khả năng đồng bộ hoá, chúng có thể hoàn toàn di động và cách xa nhau. Nhưng timecode được chèn có thể sẽ bị lệch đi một chút sau một khoảng thời gian, nên tốt nhất là bạn nên chèn lại timecode sau mỗi lần thiết bị tắt nguồn hoặc sau vài tiếng chạy liên tục cho an toàn (tuy vậy, các hệ thống timecode mới có thể duy trì độ chính xác lâu hơn).
Một phương pháp khác, các thiết bị sẽ giao tiếp không giây với nhau, đôi khi còn có thể điều khiển từ xa và chia sẻ một số loại dữ liệu khác. Hệ thống ACN của Ambient tạo một mạng không dây giữa máy quay, thiết bị thu âm, slate và máy tính bảng để đồng bộ hoá timecode, nhập dữ liệu và kiểm soát thông tin. Một trong số những hộp NanoLockit của họ có thể được gắn lên mỗi thiết bị, đồng bộ hoá chỉ bằng một nút bấm và tất cả sẽ có cùng timecode. Blink Hub của Timecode Systems có thể đồng bộ hoá timecode và cho phép điều khiển máy quay và thiết bị thu âm từ xa. Một số máy quay của Sony có thể chia sẻ timecode với nhau qua mạng không dây mà không cần thêm bất cứ thiết bị bên ngoài nào. Với hầu hết các hệ thống này, timecode liên tục được duy trì kể cả khi mất kết nối không dây.
Khi tất cả các thiết bị ghi cùng timecode, slate truyền thống không còn cần thiết cho việc đồng bộ hoá nữa. Vì vậy, ví dụ bạn có thể quay một buổi hoà nhạc với 5 máy quay và hai thiết bị thu âm, mỗi máy có thể chạy và dừng tuỳ ý mà không cần làm gián đoán quá trình để đánh slate.
TIMECODE SLATES. Các phương pháp vừa được mô tả ở trên yêu cầu máy quay và thiết bị thu âm đều phải ghi cùng timecode. Trong một số trường hợp, điều này không thuận tiện hoặc thậm chí là không khả thi – ví dụ, khi quay với máy phim, nhiều máy không hỗ trợ timecode. Timecode slate (hay còn gọi là digislate) cũng giống như clapper board bình thường với một màn hình cho phép hiển thị timecode trên đó. Một số ứng dụng, như MovieSlate, có tính năng cho phép biến thiết bị di động của bạn thành một timecode slate. Các timecode slate có thể được sử dụng với bất cứ loại máy phim nào. Máy quay có thể không hỗ trợ timecode hoặc hỗ trợ loại timecode khác với thiết bị thu âm.
Đôi khi các timecode slate có tích hợp một bộ tạo timecode riêng, vốn có thể được dùng để chèn timecode từ thiết bị thu âm. Nếu không, slate sẽ cần được nhận timecode từ một thiết bị tạo timecode ngoài, hoặc kết nối không dây với thiết bị thu âm để nhận timecode.
Dùng timecode slate thì cũng giống như dùng slate cơ truyền thống. Việc đánh slate cũng diễn ra như bình thường, thường là ở đầu mỗi shot. Khi đánh slate, timecode ở thời điểm đó sẽ đóng băng trên màn hình. Trong hậu kỳ, con số này sẽ được nhập vào hệ thống dựng hoặc telecine, hệ thống này sẽ định vị số timecode này trong âm thanh, và thế là xong, hình và tiếng được đồng bộ hoá. Lưu ý rằng đây là một hệ thống trực quan đơn giản – số timecode được con người đọc từ trên hình ảnh chứ không phải máy.
Timecode slate thường được dùng kể cả khi máy quay và thiết bị thu âm đang cùng ghi timecode giống nhau. Các shot vẫn cần được slate và việc xem timecode trên hình cũng cho phép người làm phim dễ dàng kiểm tra và tham khảo khi bắt đầu cảnh quay.
Hãy nhớ rằng nếu bạn dùng một ứng dụng slate với máy tính bảng hoặc điện thoại, thì dù trên màn hình có hiển thị timecode đi chăng nữa, bạn cũng không thể đồng bộ hoá hình ảnh và âm thanh từ timecode này. Ứng dụng phải hiển thị timecode từ thiết bị thu âm (hoặc nhận timecode từ thiết bị tạo timecode được chèn đúng timecode như trên thiết bị thu âm) hoặc phải là một timecode slate thực sự. Một số ứng dụng slate có thể làm được điều này nhưng sẽ cần phải dùng thêm thiết bị.

TỐC ĐỘ KHUNG HÌNH CỦA TIMECODE ÂM THANH. Các thiết bị thu âm có hỗ trợ timecode (và các thiết bị tạo timecode) thường cho phép bạn chọn tốc độ khung hình của timecode. Cái này không ảnh hưởng đến tốc độ ghi, chỉ là sự khác nhau về cách đếm timecode. Trong trường hợp đơn giản nhất, máy quay và thiết bị thu âm ghi ở cùng tốc độ khung hình – ví dụ như 23.976 fps. Mặc dù vậy, có một số trường hợp thiết bị thu âm được đặt ở tốc độ khung hình khác với máy quay. Ví dụ, thường thì máy phim sẽ quay ở tốc độ khung hình 24.00 fps. Khi phim được chuyển sang video, tốc độ khung hình có thể bị chậm lại 0.1%, vậy nên tốc độ khung hình chính xác mà bạn nên chọn để thu âm cũng nên chậm hơn.
Đây là các mức tốc độ khung hình tiêu chuẩn cho âm thanh:
- 23.976 fps. Máy quay ghi 24p ở các nước dùng chuẩn NTSC thường được vận hành ở 23.976 fps (hay 23.98). Một số máy quay phim hiện đại cũng có thể quay ở tốc độ khung hình này. Timecode luôn là nondrop (NDF).
- 24 fps. Được dùng khi máy quay kỹ thuật số quay ở 24.00 fps. Cũng có thể được dùng khi quay phim điện ảnh nếu quá trình chuyển từ phim sang kỹ thuật số diễn ra đúng 24.00p.
- 25 fps. Tốc độ khung hình này được dùng cho phim và video được quay ở 25 fps khi dựng ởi 25 fps (ở các nước dùng chuẩn PAL)
- 29.97 fps. Timecode tiêu chuẩn dùng cho video quay ở 29.97 fps ở các nước dùng chuẩn NTSC. Có thể là drop-frame (DF) hoặc nondrop-frame (NDF).
- 30 fps, ND. Đây là tốc độ khung hình chuẩn 30 fps chứ không giống 29.97, và có thể được dùng ở các nước dùng chuẩn NTSC cho phim quay ở 24fps. Như được mô tả ở trên, sau khi timecode âm thanh 30 fps được chậm lại 0.1%, nó sẽ khớp với tốc độ chuyển từ phim sang video ở 29.97 fps (và vẫn có thể dùng được nếu quá trình chuyển được ghi ở tốc độ 23.976 fps).
Hãy nhớ thảo luận về lựa chọn timecode cho âm thanh với lab, post house và nhóm làm hậu kỳ trước khi quay. Gắn nhãn rõ ràng cho log và slate khi âm thanh đã chạy, drop hay nondrop (cũng như những vấn đề khác đã được nêu ở trên). Chạy thử workflow trước khi chính thức quay để đảm bảo hệ thống không bị lỗi.
Đồng bộ hoá bằng biểu đồ sóng âm
Một phương thức đồng bộ hoá khác, không giống như các phương pháp mô tả ở trên, không yêu cầu timecode hay slate. Đây là một giải pháp phần mềm có thể tự động đồng bộ hoá âm thanh từ recorder với âm thanh thu được trên máy quay. Phương pháp này đặc biệt phù hợp khi bạn quay bằng DSLR hoặc các máy quay không chuyên khác vốn có hệ thống thu âm tích hợp nhưng không được tốt cho lắm. Nó cũng có thể được sử dụng khi bạn muốn ghi nhiều track hơn nhưng máy quay lại không thể xử lý được.
Đây là cách nó hoạt động: Bạn dùng một thiết bị thu âm bên ngoài để thu âm thanh chất lượng cao, với số track mà bạn cần. Bạn cũng dùng hệ thống thu âm được tích hợp sẵn trên máy để thu hoặc dùng một mic on-cam chất lượng thấp. Chỉ cần âm thanh thu được từ máy quay đủ lớn và đủ sạch (nghĩa là máy quay không ở quá xa nguồn âm), là có thể dùng được rồi. Bạn cũng có thể gửi bản trộn âm thanh từ thiết bị thu âm đến máy quay thông qua dây cáp hoặc không dây.
Trong quá trình dựng, âm thanh mà máy quay thu được sẽ nằm trên một track của NLE và bạn có thể đặt âm thanh thu được từ thiết bị thu âm bên ngoài lên các track khác. Một số NLE, và ứng dụng như PluralEyes, có thể khớp âm thanh của tất các các track và tự động đồng bộ hoá. Điều này giúp tiết kiệm thời gian quay, không cần dùng đến slate và cũng tiết kiệm thời gian dành cho việc đồng bộ hoá nữa. Phương pháp này đặc biệt hữu ích khi quay nhiều máy.
LƯU Ý KHI SỬ DỤNG HỆ THỐNG KÉP (DOUBLE-SYSTEM)
Có một vài điều cần lưu ý khi sử dụng một hệ thống thu âm riêng cho quay phim.
Khi quay tài liệu, điều quan trọng là người làm âm thanh phải luôn sẵn sàng để ghi âm ngay lập tức. Khi cảnh quay sắp diễn ra, bật thiết bị thu âm lên (nhưng đừng vội nhấn nút ghi) và cài đặt sẵn mức âm. Nếu cảnh quay thú vị, người thu âm đừng do dự mà nhấn nút ghi. Nếu cảnh đó không có gì đặc biệt, chỉ cần nói “No shot” vào mic và dừng ghi. Nếu cảnh quay tốt, quay phim sẽ bắt đầu quay. Phần đầu của cảnh thường không có hình vì lúc này máy quay chưa chạy, nhưng vì có tiếng nên có thể chèn một shot khác hoặc cutaway. Nhiều người thu âm thường có xu hướng ghi liên tục để tránh lỡ mất điều gì đó. Điều này tạo gây nên việc dữ liệu âm thanh cần lưu trữ là rất lớn, nhưng ngày nay thì việc lưu trữ dữ liệu không còn quá đắt đỏ nữa, và với tính năng đồng bộ hoá tự động, dựng phim sẽ không gặp vấn đề gì cả.
Khi quay bằng phim, một số máy telecine cần một vài giây pre-roll trước khi slate hoặc trước phần âm thanh có thể sử dụng. Hãy hỏi ý kiến đơn vị chuyển từ phim sang video trước khi quay. Để thiết bị thu âm chạy hết thời gian phân bổ trước khi slate hay máy quay chạy. Khi hết phim lúc đang quay, sẽ rất tốt nếu bạn hô “Run out” vào mic, đặc biệt là khi bạn slate ở cuối shot. Khi quay bằng phim, hãy đảm bảo rằng tất cả các âm thanh không có hình được ghi chú rõ ràng và lưu trữ riêng để không ai phải lưu tâm đến nó trong quá trình telecine hoặc đồng bộ hóa hình ảnh với âm thanh.



Bình luận về bài viết này