Thuỳ tổng hợp
Động cơ thành thực
[…] Tôi thường suy nghĩ về việc tại sao tôi lại có phản ứng với một số bức tranh cụ thể nhưng lại không phản ứng với một số bức khác. Tôi chưa bao giờ tìm ra được một câu trả lời đủ thuyết phục, nhưng đây là kết luận mà tôi cho rằng gần đúng nhất mà tôi đưa ra. Tôi thường tự hỏi tại sao tôi thích cái này và không thích cái kia. Tôi nghĩ rằng tôi rất quan trọng việc đánh giá động cơ của của người hoạ sĩ khi vẽ tranh. Liệu tôi có thể tin họ không? Bức tranh mà họ vẽ có thành thật không? Đó có phải là một biểu đạt thành thực sự trỗi dậy từ những gì có trong tim họ và được thể hiện lại trên một tấm toan không? Và sau nhiều lần chiêm nghiệm việc xem tranh của mình, tôi thấy đây là kết luận gần đúng nhất. Tôi thấy có nhiều tranh theo đuổi những mẫu hình nhất định, những vết sơn rơi trên canvas và những vết mực bắn tung toé chỗ này chỗ này kia. Và rất nhiều lần tôi nhận thấy, có nhiều người trầm trồ khen ngợi bức tranh này bức tranh kia là ngầu là thú vị, còn tôi thì kiêu căng đứng trong một góc, khoanh tay cho rằng nó thật rác rưởi.
Lý do là khi tôi nhìn thấy nó, tôi nghĩ về động cơ của người vẽ tranh. Tôi cảm thấy rằng, người hoạ sĩ trong lúc vẽ, anh ta nói rằng anh ta sẽ làm một điều gì đó thú vị khiến người xem thán phục, anh ta sẽ làm một điều gì đó thu hút ánh mắt người xem, và anh ta sẽ sử dụng mọi thủ thuật trong sách vở để thực hiện điều đó. Ngược lại, một người như Lucian lại vẽ bằng trái tim của mình. Tôi tin vào mỗi nét cọ của ông, tôi tin rằng đó là một bức tranh chân thành, sự chân thành đến từ đây (từ trái tim của ông ấy) và không có động cơ để cố gắng làm người xem say đắm hoặc cố nói với người xem rằng: “nhìn bức tranh này đi, tôi là người giỏi nhất, tôi thật tuyệt vời”.
Đó là lý do gần chuẩn xác nhất về việc vì sao tôi phản ứng với tranh của Lucian Freud nhưng không phản ứng với tranh của một số nghệ sĩ khác vẽ theo lối tương tự.
[…]
Sự thể hiện những cảm xúc chân thật đối với điều gì đó lớn hơn bản thân mình
[…] Tôi nghĩ mọi hình thức nghệ thuật đều là một cớ để kể về điều gì đó lớn hơn. Van Gogh đã ghi lại những cảm xúc của mình trên một tấm canvas khi ông nhìn vào những bông hướng dương. Mỗi nét cọ, tốc độ đi cọ và những màu sắc ông chọn để đặt vào tranh… Mọi quyết định ông đưa ra đều là một bản ghi về những cảm xúc của ông, trạng thái của ông tại thời điểm ông vẽ tranh.
Ai quan tâm đến những bông hướng dương cơ chứ? Chúng ta đã thấy rất nhiều hoa dưới mọi dạng thức. Matis có câu nói nổi tiếng rằng việc vẽ một bông hoa hồng là điều khó khăn nhất. Bởi vì người ta phải quên đi tất cả những bông hoa hồng đã được vẽ trước đó. Và điều đó thật sự đúng với tôi, vì đối với tôi, tranh tĩnh vật là thứ mà sinh viên thường phải thực hiện trong các trường nghệ thuật. Đây (bức Hoa Hướng Dương của Van Gogh) cũng chỉ là một bức tranh tĩnh vật, vậy tại sao chúng ta lại nhìn vào nó và nói “wow, những bông hướng dương, tác phẩm nghệ thuật này đẹp quá”. Đó chỉ là một cớ để ông ấy ghi lại một phần của mình, ông ấy đã ghi lại chính mình trên tấm bảng. Và đó là điều chúng ta đang thấy. Chúng ta thấy tính cách, sự phấn khích và sự ám ảnh mà ông ấy có trước vẻ đẹp của những bông hoa.
[…]
Xác định tính đáng tin của một tác phẩm nghệ thuật thông qua khoa học
[…] Tôi không nhìn vào nó [tác phẩm nghệ thuật] từ góc độ khoa học [ngay từ khi bắt đầu]. Khi vẽ một bức tranh, tôi bắt đầu bằng trực giác của mình và sau đó tôi bắt đầu nghĩ về nó một cách khoa học hơn, hoặc tôi đặt ra những câu hỏi mang tính khoa học về lý do tại sao tôi vẽ bức tranh đó như vậy.
Tôi nghĩ rằng đối với nghệ thuật, quan trọng là nên bắt đầu từ trực giác, từ những điều có ý nghĩa với bạn hoặc những gì mà bạn cho là đúng, sau đó bạn bắt đầu đặt câu hỏi. Tại sao và như thế nào, và nó có ý nghĩa gì.
Trong việc vẽ tranh, có rất nhiều yếu tố khoa học. Nếu bạn pha màu xanh lam với màu vàng, bạn luôn luôn có được màu xanh lá. Đó là khoa học. Nhưng khi bạn vẽ, tôi nghĩ bạn cần quên đi khoa học. Khoa học và kỹ thuật cần tồn tại sâu trong tâm trí, trong tiềm thức của bạn. Nhưng bạn cần để tâm hồn, tinh thần của bạn dẫn dắt bạn khi vẽ.
Trong một cuốn sách vào thế kỷ 17, có người đã đề cập đến thứ gọi là “hai lý thuyết không thể”. Không phải là hai lý thuyết hoàn hảo mà là hai lý thuyết không thể. Người này nói rằng sự hoàn hảo khi viết một tác phẩm chính là kiềm chế sự phóng đại. Tôi không thể trích dẫn chính xác đoạn văn đó, nhưng nó đại khái nói rằng: nghệ thuật cần phải đáng tin cậy. Để có thể thưởng thức được nghệ thuật trong một tác phẩm, bản thân nó phải chứa đựng sự thật.
Trong nghệ thuật, phải có điều gì đó là sự thật, phải có một sự thật toán học hoặc vật lý hiện diện trong tác phẩm.
Cách não người tri giác mọi thứ là: não của chúng ta tạo ra nhận thức trừu tượng về thế giới bên ngoài. Ánh sáng, âm thanh, cảm giác, mùi, vị… đi vào các giác quan của chúng ta, tất cả đều được dịch thành tín hiệu điện và hóa học, sau đó não tái tạo những tín hiệu đó thành hình ảnh bên trong. Não liên tục tạo ra những khái niệm trừu tượng về những tồn tại bên ngoài.
Nếu tôi chụp ảnh bạn và cho bạn xem, bạn sẽ nói rằng đó đúng là bạn. Còn nếu tôi nói: aha, nhưng tôi là một họa sĩ trừu tượng, và đối với tôi bạn trông giống như thế này: tôi vẽ một loạt các đường nét trừu tượng và tôi cho bạn xem, bạn sẽ thấy rằng nó không giống bạn tí nào cả, bạn sẽ nói: tôi không nghĩ là như vậy.”
Tuy nhiên, nếu tôi là một thiên tài nghệ thuật, tôi tạo ra một hình ảnh của bạn trong đó đôi mắt bị méo mó đi, thay đổi vị trí hay đổ bóng một cách kỳ dị. Nó đủ sự tương đồng để bạn và những người khác nhìn và nhận ra đó là khuôn mặt của bạn, nhưng đủ khác biệt để tạo ra sự kinh ngạc. Chúng ta nhận ra bạn nhưng hình ảnh của bạn trong tranh khác biệt đến mức nó trông thú vị.
Não người là một bộ máy trừu tượng, nó không thực sự biết điều gì đang tồn tại, nó chỉ đang đưa ra những dự đoán gần đúng nhất. Vì vậy, tôi nghĩ rằng khi chúng ta nhìn vào một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, chúng ta có thể thấy rằng nó chứa đủ sự thật vật lý thực sự của vật đó, nhưng nó cũng mang những tính chất trừu tượng tương tự với cách mà bộ não của chúng ta hoạt động.
Tôi sẽ đưa ra thêm một ví dụ, Rothko, đối với một số người không thích ông thì tranh của ông chỉ đơn giản là một mảng màu trên tấm canvas. Nhưng Rothko, cho dù ông có cố ý hay không, đã làm một điều tuyệt vời với nghệ thuật của mình. Ông đã loại bỏ không gian trắng trên bức tranh. Và khi làm như vậy, ông đã cho phép một số thứ xuất hiện trong không gian màu sắc, như thuật ngữ mà chúng ta thường gọi trong thần kinh học thị giác. Một số màu không thể nhìn thấy trừ khi chúng được đặt cạnh các màu khác. Khi bạn loại bỏ toàn bộ không gian trắng trên tấm canvas và loại bỏ khung tranh, những màu bạn chưa từng thấy trước đây và các chuyển đổi màu sắc bạn không thể nhìn thấy sẽ nổi lên. Đó là sự tài hoa của Rothko.
Nó không phải chỉ thuần tuý là hai mảng màu trong một hình vuông hay một hình chữ nhật. Và đây là lý do tại sao chúng có giá trị hàng triệu đô la. Chúng tuyệt vời vì chúng bắt lấy một sự thật vật lý về không gian màu mà một bức tranh có khung hay một bức tranh vẫn còn chứa những mảng trắng khó có thể thể hiện được.
Rothko cho chúng ta thấy không gian màu, toán học về cách não tạo ra sự tương phản màu và độ sáng và bước sóng và cường độ… Và màu sắc cũng liên quan mật thiết đến tương quan giá trị trong não theo một cách rất thú vị. Chúng ta không nhìn vào tranh của Rothko và tự động liên tưởng tới tất cả những kiến thức khoa học đằng sau nó, nhưng chúng ta cảm nhận được điều gì đó, cảm nhận được nội hàm sâu sắc của nó. Nếu chúng ta thực sự cảm thấy thích tranh của Rothko, chúng ta sẽ nói: “Hm, thú vị đấy, bức tranh này thu hút tôi.”
Liệu rằng Rothko đã vẽ những bức tranh đó dựa trên những kiến thức khoa học mà chúng ta vừa mô tả, hay ông chỉ cảm nhận tranh của mình một cách trực giác, vào một khoảnh khắc nào đó trong quá trình làm việc, ông cảm thấy: đây là một bố cục tuyệt vời, đây là một kết hợp màu sắc tuyệt vời và tôi sẽ vẽ một bức tranh như vậy?
Rất có thể Rothko đã cảm nhận được điều gì đó khi nhìn thấy màu sắc trong một điều kiện hạn chế của tầm nhìn và sau đó nhận ra rằng ông có thể tái hiện lại nó trên một quy mô lớn, vì Rothko thường tạo ra những tác phẩm khá lớn. Điều gì đó đặc biệt đã diễn ra.
Vì vậy, theo tôi, điều chúng ta muốn nói là: một tác phẩm nghệ thuật xuất chúng đưa chúng ta qua một quỹ đạo, qua cung đường của một câu chuyện xuất sắc. Nó bao gồm sự bất ngờ, nhận thực về sự thật, sự bí ẩn… tất cả những yếu tố đó có trong những màn ảo thuật, trong những tác phẩm nghệ thuật và có lẽ cũng có trong một bài hát hay một vở kịch tuyệt vời.
Một góc nhìn khách quan bao quát, tách tác phẩm nghệ thuật ra khỏi bản thể của mình để trở thành một tồn tại độc lập
Bạn cần phải có một tầm nhìn rộng hơn, bạn cần phải tách bản thân ra khỏi những điều mà bạn đã lặp đi lặp lại quá nhiều và bạn đã thiết lập những định kiến xung quanh đó.
Khi tôi tiếp cận một màn ảo thuật mới hay thực hiện một trò ảo thuật nào đó, tôi dùng một cách tiếp cận tương tự nhau, nó bị công thức hóa và công thức là chất độc đối với nghệ thuật.
Khi bạn tiếp cận một điều gì đó với một quan điểm đã được định trước, một quan điểm đã được hình thành về cách bạn làm việc, bạn có thể lặp lại chính mình đến mức khiến bạn chán ngấy bản thân, như vậy bạn không cho phép bản thân phát triển và tìm kiếm những điều mà bạn chưa từng biết đến, tồn tại trong bạn hoặc bên ngoài bạn.
Có một kỹ thuật được nhiều họa sĩ sử dụng, một trong những người dùng nó nhiều nhất là Andrew Wyeth. Ông ấy vẽ một bức tranh, sau đó ông sẽ nhìn vào nó và nói rằng có điều gì đó không đúng, nhưng ông ấy không biết chính xác là gì. Bức tranh này vẫn còn có gì đó không ổn. Sau đó, ông ấy sẽ cầm bức tranh và nhìn vào nó qua một tấm gương, ông nhìn vào hình phản chiếu của nó, giống như cách chúng ta suy nghĩ vào ban đêm. Và khi ông ấy nhìn vào hình ảnh phản chiếu, ông ấy nhận ra là: “à, là cái mũi cần phải chỉnh lại một chút”.
Ông ấy không thể thấy điều đó khi nhìn trực diện vào bức tranh. Sự sai lệch đã biến mất hoặc bị méo mó. Nhưng khi ông ấy nhìn vào hình phản chiếu, ông ấy có thể thấy được.
Bởi vì ông ấy có thể loại bỏ những định kiến của mình, ông ấy thấy bức tranh gần như là một phiên bản họ hàng của bức tranh mà ông ấy vừa vẽ ra. Đó một điều thật sự đẹp đẽ trong quá trình sáng tác.



Bình luận về bài viết này