Thuỳ tổng hợp

Khi được hỏi như thế nào là một phim trường làm việc hiệu quả, Paul Thomas Anderson nói: “Nó (phim trường) không nhất thiết phải mang những yếu tố thần thoại phi thường phi thực tế, không cần phải có những tiếng thét, không cần phải có những anh cao bồi hay những cái loa. Nhưng nó cần phải được tổ chức tốt sao cho những người trong đoàn phim có thể giao tiếp và hợp tác tốt với nhau. Công việc cần phải mang lại niềm vui. Người làm việc cần phải tử tế với nhau và cùng nhau hoàn thành công việc.”

Paul Thomas Anderson bây giờ đã hơn 50 tuổi rồi. Anh ấy đã bắt đầu làm phim từ khi còn là thiếu niên. Anh là một đứa trẻ ở Valley (San Fernando Valley) và anh chưa bao giờ thực sự rời khỏi những khu phố đó cả. Những bộ phim đầu tiên của anh ấy – “Hard Eight” và “Boogie Nights” – được làm ra trong những năm anh 20 tuổi, và kết từ đó, anh ấy luôn là kiểu nghệ sĩ mà mỗi lần anh có tác phẩm mới ra mắt thì đó đều là một sự kiện lớn trong giới. Philip Seymour Hoffman, Daniel Day-Lewis, Tom Cruise, Melora Walters, Julianne Moore, và Joaquin Phoenix… là những diễn viên kỳ cựu từng xuất hiện trong những bộ phim hay nhất của anh như “Punch-Drunk Love,” “Magnolia,” “There Will Be Blood,” “The Master,” và “Phantom Thread.”

Paul Thomas Anderson hiếm khi nói chuyện với giới phóng viên, báo chí. Trong một lần hiếm hoi xuất hiện trên chương trình The New Yorker Radio Hour của tạp chí The New Yorker, được thực hiện qua Zoom, người ta phát hiện tên tài khoản Zoom của anh là “Mason & Dixon,” một dấu hiệu thể hiện sự ngưỡng mộ của anh với tiểu thuyết gia ẩn dật Thomas Pynchon. (Anderson đã làm một bộ phim từ tiểu thuyết “Inherent Vice” của Pynchon). Anderson sinh ra ở San Fernando Valley và hiện đang sinh sống ở đây. Anh cũng chọn nơi này làm bối cảnh diễn ra câu chuyện trong “Boogie Nights,” “Magnolia,” và “Licorice Pizza”. Rõ ràng nơi này có ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến anh và phim của anh.

Anh nói: Tôi yêu nơi này. Tôi đã sinh ra và dành phần lớn thời gian của cuộc đời mình ở đây. Có lẽ tôi cũng sẽ ra đi ở đây. Khi còn nhỏ, đôi lúc tôi cũng nghĩ rằng mình phải đi đến một nơi nào đó khác. Có lẽ là LA, có lẽ là New York, London hoặc Thượng Hải – hoặc có thể là bất kỳ đâu, chỉ cần là được đi khỏi đây.

Dù tôi là kiểu người thích đi, nhưng chỉ cần qua một ngày là sẽ bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy khó chịu và muốn về nhà. Tôi chỉ muốn về lại nhà mình. Tôi là kiểu người thích ở nhà. Gia đình tôi ở đây. Bạn bè tôi ở đây. Đây là nơi mà tôi liên tục quay trở lại. Dù có tham vọng dang rộng đôi cánh bay đi thật xa, nhưng tôi vẫn luôn quay trở lại. Sau khi đến London làm phim “Phantom Thread” – có lúc tôi ước được ở lại đó làm việc – nhưng khi tôi về nhà thì tôi lại thấy thực sự hạnh phúc. Valley không phải là nơi đẹp nhất thế giới, cũng không phải là một nơi có nền văn hoá thú vị nhất thế giới, tôi biết điều đó, nhưng đây là nhà tôi.

Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường hay nghe những chương trình radio muộn và xem những chương trình truyền hình chiếu muộn. Lúc đó mọi người ở California thường sẽ hay khịa Valley một chút. San Fernando Valley là một vùng đất bằng phẳng nằm giữa dãy San Gabriel và dãy Santa Monica. Ngày xưa nó tồn tại với tư cách là một vùng nông nghiệp. Bây giờ thì nó là một vùng ngoại ô. Mấy vùng ngoại ô thì hay bị nói này nói kia lắm. Tôi cũng không hiểu vì sao lại như vậy. Tôi bắt đầu viết “Boogie Nights” khi còn đang là một thiếu niên, có một câu chuyện tuyệt vời diễn ra ngay trong sân sau nhà tôi. Tôi không cần phải đi đâu xa. Tôi không cần phải bịa ra cái gì cả. Tôi có thể nghiên cứu thêm một chút, tìm hiểu về những người trong ngành này, nhưng mấy cái đấy vẫn là quen thuộc với tôi. Có lúc tôi nghĩ mình thực sự nên viết về những gì mà mình biết. Đó là một khởi đầu tốt. Việc này đã đủ vất vả rồi. Vậy nên không có lý do gì mà tôi phải vật lộn để tìm hiểu về điều gì đó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi hoặc không phù hợp với tôi.

“Licorice Pizza” xoay quanh hai nhân vật chính. Một là Gary Valentine, do Cooper Hoffman thủ vai, một chàng trai tuổi teen có tính cách vô cùng lôi cuốn. Cậu ấy là một diễn viên chưa có nhiều thành tựu. Ban đầu cậu ta bán đệm nước, sau này thì chuyển qua kinh doanh khu vui chơi. Cách nói chuyện của cậu ấy, lòng dũng cảm của cậu ấy, là một điều khiến những người mười lăm tuổi khác phải ngưỡng mộ. Cậu phải lòng một cô gái, tên là Alana Kane, do Alana Haim thủ vai. Cô lớn tuổi hơn cậu nhiều. Cô đã khoảng hơn 25 tuổi rồi, cuộc sống của cô ấy khá khó khăn nhưng trí thông minh của cô cực kỳ gây thu hút.

Tôi là người con thứ hai trong gia đình, vậy nên tôi có một người chị, chị ấy có những người bạn bè lớn tuổi của mình. Cậu bạn thân của tôi cũng có một chị gái. Vậy nên chúng tôi thường ở trong tình trạng, khi chúng tôi 14, 15 tuổi, xung quanh chúng tôi thường là các chị gái 18,19 tuổi. Họ có xe. Và thường thì chúng tôi sẽ tìm cách nhờ họ chở đi đâu đó. Chúng tôi cũng thường cố gắng tán tỉnh họ, tìm cách để được đi chơi cùng họ, tìm kiếm sự chú ý của họ theo cách không chỉ là như mấy đứa em trai phiền hà của họ.

Tôi nhớ mình đã làm bạn với một số cô gái mình gặp dọc được. Đó chỉ là tình bạn, nhưng chúng thật tuyệt vời. Điều tuyệt vời nằm ở chỗ đó chỉ là tình bạn. Để có được tình bạn với những người hơi lớn tuổi hơn nhưng không phải chị mình – tôi đã phải bước chân vào một phiên bản của thế giới người lớn hoặc bắt đầu có cảm giác mình là người lớn chỉ bởi được họ chở đi đến nơi này nơi kia.

Có lẽ sự khẳng định lớn nhất về sự khác biệt quyền lực và tuổi tác trong phim không nằm trong những tình tiết gợi tình mà nằm trong những phân cảnh trên xe. Một vài lúc, Alana không lái xe hơi mà lái xe tải, cô ấy đi lùi xuống dốc với tốc độ tối đa, đi vào trung tâm thành phố. [Gary thì ngồi bên cạnh cô và sợ chết khiếp, vừa sợ vừa hồi hộp]. Đây là một cảnh hết sức kịch tính. Nó còn kịch tính hơn cả lúc Grace Kelly lái xe ở tốc độ tối đa trên một đoạn đường đèo ở miền nam nước Pháp với Cary Grant.

Mấy cái chuyện như vầy rất hay xảy ra ở Nam California, văn hoá giao thông ở đây nó như vậy. Và tôi thích nó. Đặc biệt là khi ở tuổi đó – từ nhỏ bạn đã mong muốn có được một chiếc xe. Đó cũng là thứ đem lại cho bạn những rắc rối lớn. Sau này nhìn lại, tôi thường nghĩ rằng không thể tin được là mình đã sống sót qua tất cả những trải nghiệm như vậy. Lúc nhỏ khi bạn bày ra những trò quậy phá như vậy bạn chỉ đơn thuần thấy nó vui mà thôi, nhưng sau này lớn hơn một chút thì bạn sẽ thấy đó thực sự là chuyện sinh tử.

Ba tôi, Ernie Anderson, là người Boston. Sau chiến tranh, ông trở lại và làm dẫn chương trình cho một đài phát thanh ở Vermont, sau đó thì ông chuyển đến Cleveland, Ohio. Ông ấy tham gia vào việc phát triển và sản xuất một số chương trình truyền hình mới vào thời điểm đó. Ông sản xuất và là người dẫn chương trình của một trong số những chương trình kinh dị đêm khuya kinh điển. Nhân vật của ông tên là Ghoulardi. [Chương trình được phát sóng trên WJW vào tối thứ 6 hàng tuần trong khoảng từ năm 1963 đến 1966, và nó đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đến những người như Drew Carey hay The Cramps]. Ông ấy đeo một bộ râu Van Dyke giả, đeo kính râm với một tròng kính lồi ra. Công việc của ông là giới thiệu các bộ phim kinh dị và mua vui cho lũ trẻ. Ghoulardi  là một nhân vật rất nổi tiếng ở Cleveland. Sau này thì cha tôi chuyển đến Nam California, đến San Fernando Valley, và làm phát thanh viên lồng tiếng cho ABC, ông cũng làm quảng cáo nữa. Ông làm phát thanh viên của “The Carol Burnett Show.” Nhưng nhân vật Ghoulardi vẫn luôn luôn gắn bó với hình ảnh của ông và nó vẫn gây ảnh hưởng đến những người ở Cleveland vào thời điểm đó. Có rất nhiều người chịu ảnh hưởng lớn từ nhân vật Ghoulardi trong những tháng năm tuổi thơ của họ, có thể kể đến Chrissie Hynde và Jim Jarmusch.

Một lần tôi quay lại Cleveland với ba – hồi đó tôi 7-8 tuổi gì đó – khi chúng tôi bước xuống máy bay và vừa đặt chân vào sân bay thì ba tôi đã bị rất nhiều người nhận ra và vây quanh. Đó là một trải nghiệm đáng kinh ngạc khi thấy ba mình, vốn không có gì quá đặc biệt đối với những người tại Valley, thực chất lại nổi tiếng như vậy, là một siêu sao của đài truyền hình Cleveland.

Mẹ tôi thường nói rằng tôi không bắt đầu làm đạo diễn khi tôi 26-27 tuổi – mà tôi đã bắt đầu làm đạo diễn từ hồi 4-5 tuổi rồi. Bà ấy thường kể những câu chuyện về việc hồi đó tôi tập hợp mọi người lại và tổ chức những buổi biểu diễn.

Tôi đã yêu thích việc làm phim từ rất sớm. Và tôi cũng thật may mắn khi muốn làm phim lúc công nghệ đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều với sự ra đời của camcorder, máy quay phim gia đình. Vào thời điểm đó Steven Spielberg là ngôi sao sáng, nhưng lúc đầu làm phim ông phải quay bằng phim Super 8. Lúc đó người ta cắt phim bằng kéo, chia cuộn phim thành nhiều đoạn nhỏ rồi ghép chúng lại với nhau. Vào thời của tôi thì tôi đã có máy quay gia đình. Nó vẫn còn rất lớn và cồng kềnh, nhưng nó đã có màn hình để bạn có thể xem được là mình đang quay cái gì và cũng có thể dễ dàng xem lại sau khi quay. Bạn cũng có thể nhanh chóng dựng các đoạn phim lại với nhau. Bạn có thể học rất nhanh. Lúc đầu bạn có thể làm ra những bộ phim rất tởm nhưng rồi bạn sẽ tiến bộ theo thời gian. Bạn luôn có thể luyện tập thường xuyên.

Hồi bắt đầu làm bộ phim đầu tiên của mình tôi còn rất trẻ, nhưng tôi đã rất tự giác và có sự chuẩn bị. Tôi đã được chuẩn bị bởi vì tôi biết tôi là người nhỏ nhất trên set và tôi không muốn làm mọi người thất vọng. Có rất nhiều người trong số đó đã làm nghề được 10, 15 và thậm chí là 20 năm. Tôi thực sự không muốn mình là nguyên nhân làm chậm chân mọi người trên set. Tôi đã từng làm P.A. cho rất nhiều phim, vậy nên tôi biết cái gì có thể giúp cho việc quay phim diễn ra thuận lợi còn cái gì thì không. Điều quan trọng vẫn luôn là việc mọi người giao tiếp với nhau. Tôi là người giúp mọi người chuẩn bị cafe. Trên nhiều phim trường, không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Mọi người va vào nhau. Mọi việc trên set có thể có thể trở nên lộn xộn như vậy đấy. Làm PA, tôi có thể thấy rất nhiều ví dụ thực tế về việc tại sao một số phim lại khá lộn xộn còn trong một số phim khác thì mọi việc trên set lại diễn ra suôn sẻ – khi đó mọi người giao tiếp với nhau một cách rất hiệu quả. Bạn sẽ không nghe thấy những tiếng la hét. Sẽ có một người độc tài trên set, nhưng đó có thể là một nhà độc tài nhân từ. Nó (phim trường) không nhất thiết phải mang những yếu tố thần thoại phi thường phi thực tế, không cần phải có những tiếng thét, không cần phải có những anh cao bồi hay những cái loa. Nhưng nó cần phải được tổ chức tốt sao cho những người trong đoàn phim có thể giao tiếp và hợp tác tốt với nhau. Công việc có thể mang lại niềm vui và mọi người có thể tử tế với nhau mà vẫn có thể hoàn thành tốt công việc.

Có những người như Hitchcock, luôn có kế hoạch cho tất cả mọi thứ, luôn có storyboard, mọi cảnh quay được chuẩn bị trước một cách tỉ mỉ. Phim gần như đã được dựng xong từ trước khi quay. Lại có những người như Jean-Luc Godard, vốn thích ứng biến với mọi thứ hơn là chuẩn bị, hôm nay quay thì sáng nay viết kịch bản, mọi thứ được thực hiện một cách lộn xộn, hoặc trông có vẻ lộn xộn.

Đối với riêng tôi thì, tất cả đều bắt đầu và kết thúc với kịch bản. Nói như vậy thì cũng hơi cường điệu quá, nhưng ý tôi muốn nói là, nếu kịch bản tốt, bạn đã có một nền tảng rất tốt để có thể làm được một bộ phim hay. Bạn có một cái nhìn rõ ràng về việc bạn đang làm gì. Và lý do là bởi trong quá trình viết, sẽ có rất nhiều lúc bạn viết ra một cảnh không phù hợp, dù bạn đã tốn rất nhiều thời gian và công sức xây dựng thế giới câu chuyện, sửa đi sửa lại những cảnh quay, thử hàng trăm cách tiếp cận khác nhau, nhưng rồi bạn nhận ra là cảnh này thực sự không phù hợp với bộ phim của bạn và thực sự phải cắt bỏ. Bạn biết rõ cái gì phù hợp và cái gì không trong bộ phim của bạn.

Tôi rất thích viết. Đó là phần quan trọng nhất đối với tôi. Bởi nếu tôi cảm thấy kịch bản được viết tốt và tôi có thể nhìn thấy nó biến thành hình ảnh, thành bộ phim ở trong đầu mình, tôi sẽ thấy thoải mái hơn khi ở trên set, và thoải mái hơn khi thức dậy mỗi ngày và nói: tuyệt vời, tôi rất mong chờ được thực hiện cảnh quay đó.

Nhiều lúc bạn sẽ nghĩ rằng đây là cảnh tuyệt nhất trong phim. Và đôi khi bạn lại cảm thấy rằng nó không thực sự cần thiết. Đây là cái khó trong việc viết kịch bản. Dù bạn đã có kinh nghiệm nhiều năm thì chưa chắc là bạn có thể phát hiện ra những cảnh như vậy trong kịch bản một cách nhanh chóng. Trong Licorice Pizza, có một số phân đoạn tôi viết mãi mà vẫn không được như ý. Vậy là tôi kiếm Alana và Cooper nói rằng: “Nếu trong cảnh đó mà hai bạn không nói gì với nhau cả mà chỉ bước đi, lặng lẽ nhìn nhau thì sao nhỉ?” Và hoá ra nó lại rất hợp với bối cảnh câu chuyện lúc đó. Nó như phép màu vậy và chuyện thế này vẫn thường xảy ra. Nó là một ví dụ điển hình về việc sau khi đã viết quá nhiều thoại rồi, sẽ có lúc bạn nhận ra thoại không thực sự cần thiết cho cảnh phim đó.

Cooper Hoffman là con của Philip Seymour Hoffman. Alana là Alana Haim, người đại diện cho band nhạc HAIM cùng với 2 chị em Este và Danielle. Cho đến nay, Cooper Hoffman chủ yếu vẫn được biết đến với tư cách con trai của Philip Seymour Hoffman, còn Alana Haim thì được biết đến với tư cách là nhạc sĩ. Tuy rằng họ chưa có nhiều kinh nghiệm diễn xuất và cũng chưa tạo dựng được tên tuổi đặc biệt ấn tượng trong ngành, nhưng tôi thề rằng nếu bạn ở vị trí của tôi thì bạn sẽ cảm thấy rằng làm sao mà có thể không chọn họ cơ chứ?

Tôi biết họ ngoài đời. Tôi biết Alana có tài năng và kinh nghiệm biểu diễn từ những năm tháng đi hát của mình. Tôi biết Cooper có trái tim và tâm hồn. Lúc đầu thì không chắc lắm liệu Cooper có thể diễn ra được hay không – bởi vì không ai có thể biết chắc chắn được ngay từ đầu rằng liệu một diễn viên có thể giữ được phong độ diễn xuất một cách xuyên suốt hay không. Một số người sẽ trở nên bối rối khi thấy nguyên một dàn máy quay đồ sộ chĩa vào mặt họ. Điều đó luôn có thể xảy ra. Nhưng khi chúng tôi đọc kịch bản cùng nhau, đi chơi cùng nhau nhiều và thực sự tìm hiểu kỹ càng xem họ có phù hợp với vai diễn hay không, thì tôi thấy rằng việc chọn họ cho vai diễn không tới nỗi phức tạp như bạn nghĩ. Đó là quá trình tìm ra hai con người chân thật, đáng tin cậy và không thể giấu cảm xúc của mình. Và họ cứ thế xuất hiện ngay trước mắt tôi, và họ muốn học hỏi, và họ thực sự muốn cố gắng và họ không muốn làm tôi thất vọng. Họ cũng không muốn tự làm mình thất vọng. Vậy thì làm thế nào mà chúng tôi có thể không chọn họ? Nó sẽ là trải nghiệm tuyệt vời cho tất cả chúng tôi.

Đối với vai của Alana thì không có thử vai. Tôi đã chắc chắn về vai của cô ấy. Tôi đã làm rất nhiều MV cho cô ấy. Tôi đã làm việc với cô ấy và các chị em của cô ấy. Tôi liên hệ với họ vì tôi thích nhạc của họ và tôi đã đề nghị làm MV cho họ. Tôi đã có một lần hợp tác vượt ra ngoài khuôn khổ của MV. Tôi quý họ như người trong nhà. Tôi thích nhạc của họ. Và chúng tôi cứ thế gắn bó với nhau.

Sự thật là, trải nghiệm làm MV cho HAIM đã truyền cảm hứng cho tôi định hình phong cách cho “Licorice Pizza”. Chúng tôi cùng nhau đi qua những con phố của Valley. Chúng tôi không có tiền, không có thời gian. Cả team có khoảng 10 người, đôi khi chỉ có 5. Và đó là những ngày quay vui nhất – nó gần gũi. Và họ là những đối tác tuyệt vời. Tôi như được tăng thêm sức mạnh nhờ năng lượng của họ. Và năng lượng đó đã được đưa vào kịch bản của Licorice Pizza.

Còn đối với nhân vật Gary, mà sau này là Cooper đóng, lúc đầu chúng tôi vẫn làm casting như thường, chủ yếu là vì tôi muốn chắc chắn hơn. Biết đâu còn có một ai khác ngoài kia phù hợp hơn. Nhưng cuối cùng thì việc casting vẫn không thành công, dù nó kéo dài khá lâu. Tôi kể với ba chị em Alana, Danielle và Este về Cooper. Họ trao đổi riêng với nhau một lúc lâu rồi không nói gì nữa và quay qua tôi bảo rằng “Có lẽ đó là một ý tưởng hay đấy”. Vậy là tôi bắt đầu quá trình thử vai cho Cooper.

Hồi trước tôi sống ở Los Angeles và Cooper sống ở New York. Lúc đó tôi biết cậu ấy vì tôi và ba cậu là bạn. Tôi giới thiệu cậu ấy với 3 chị em nhà HAIM từ cách đây 5-6 năm. Lần đó cậu ấy tới LA thăm tôi, ở nhà tôi và tôi chăm sóc cho cậu ấy. Một ngày tôi có việc phải ra ngoài nên tôi gửi cậu ấy cho ba chị em nhà HAIM trông hộ. Họ đã rất hoà hợp với nhau. Cậu ấy là một người thu hút, độc đáo, có cá tính, quyến rũ và biết đồng cảm với người khác.

Trong 4 bộ phim trước đó, tôi đã làm việc với Daniel Day-Lewis trong hai phim, và làm việc với Joaquin Phoenix trong hai phim. Đây đều là hai diễn viên đầy kinh nghiệm và hết sức xuất chúng. Họ biết chính xác mình đang làm gì và cần phải làm gì. Nhưng những diễn viên trong Licorice Pizza thì hơi khác một chút, họ chưa có quá nhiều kinh nghiệm đóng phim.

Những diễn viên chuyên nghiệp thường sẽ biết cách điều chỉnh nhịp sống, cảm xúc và sức khỏe thể chất của mình trong thời gian 65 ngày quay. Nó là cái gì đó tương đối tự nhiên đối với họ – họ trở nên hoàn toàn tập trung vào việc quay phim, xử lý mọi công việc một cách rất dễ dàng.

Nhưng đối với những diễn viên chưa có nhiều kinh nghiệm thì tôi phải hướng dẫn họ một cách cẩn thận về từng bước của quy trình và cho họ đủ thời gian để chuẩn bị. Tôi nói với họ rằng: “Mọi người hãy thuộc kịch bản thật kỹ trước nhé. Vì khi bước vào giai đoạn quay thì sẽ không có thời gian để thuộc kịch bản đâu. Lúc quay thì sẽ giống như mình đang trượt tuyết xuống núi với tốc độ hàng trăm km/giờ, mọi thứ sẽ diễn ra nhanh lắm đó.”

Tôi phải chú ý đến những thứ cơ bản nhất, đặc biệt là đối với Cooper – cậu ấy mới 16-17 tuổi. Luôn phải hỏi những câu như: con đã ăn sáng chưa? Có muốn ăn thêm bánh không? Có mệt không? Bạn phải chăm sóc diễn viên như vậy đó.

Thậm chí là phải mang theo nước ngọt và đồ ăn vặt lên set nữa. Nhưng mà về cơ bản thì đó vẫn là việc làm sao để cho diễn viên bắt nhịp được với việc đi quay liên tục mỗi ngày trong một khoảng thời gian. Mỗi cảm xúc, mỗi lời nói của nhân vật mà họ đóng đều là quan trọng. Nó phải rõ ràng đối với họ. Bạn sẽ thấy những thay đổi rất thú vị của diễn viên, những khác biệt giữa ngày thứ nhất và ngày thứ ba, giữa ngày thư ba và ngày thứ năm.

Tôi cũng đã từng làm việc với ba của Cooper là Philip Seymour Hoffman. Ngoại hình của họ có nhiều điểm tương đồng lắm. Nhưng Cooper thực sự mang một cá tính riêng. Cậu ấy có đôi mắt và nụ cười của mẹ. Thỉnh thoảng khi cậu ấy quay đầu lại, tôi thấy cậu ấy rất giống ba. Nhưng làm việc với Phil cũng giống như làm việc với Daniel hay Joaquin. Họ là những người chuyên nghiệp và hiểu rõ công việc diễn xuất nói riêng và việc sản xuất phim nói chung.

Cá tính của nhân vật do Cooper đóng rất thú vị, đáng yêu và mưu mô đến mức đáng kinh ngạc. Một số phim khác của tôi cũng có những nhân vật lôi cuốn và phức tạp, như William H. Macy hay Tom Cruise trong “Magnolia,” Daniel Day-Lewis trong “There Will Be Blood” hay “Phantom Thread.”

Nhưng tôi chỉ nhận ra điều đó khi tôi đã viết xong kịch bản hoặc đã làm xong phim. Thậm chí là một số phim khi đi đến giai đoạn làm marketing thì tôi mới nhận ra.

Tôi không nghĩ là tôi cố tình làm ra như thế. Tôi nghĩ loại nhân vật như vậy có sức hút tự nhiên đối với tôi, bởi vì về mặt bản chất, họ sẽ tạo ra những tình huống kịch tính thú vị và hài hước. Tham vọng của Gary thú vị ở chỗ nó là tham vọng của một thiếu niên, nó thường rất lớn nhưng chỉ kéo dài trong phút chốc. Nó có nhiều tiềm năng tạo ra kịch tính và những tình huống hài hước.

Về Alana Haim, cô ấy thực sự xuất sắc với khả năng diễn xuất của mình. Tôi nghĩ rằng cô ấy là một người có năng khiếu. Daniel Day-Lewis có tài. Joaquin Phoenix có tài. Phil có tài. Cô ấy (Alana Haim) cũng vậy. Một vài người có khả năng diễn xuất y như họ thật sự là nhân vật đó và thế giới trong phim đó thực sự tồn tại vậy. Họ có thể làm như vậy khi họ đang đi, đang nói. Nó như kiểu một màn ảo thuật ấy.

Tôi không làm phim Marvel. Tôi không làm Fast & Furious. Tôi chỉ làm những phim độc lập với kinh phí thấp hoặc vừa. Nhưng tôi thích mọi thứ như vậy. Tôi có một góc của riêng mình và làm việc với những người mà mình thực sự ngưỡng mộ. Tôi rất hạnh phúc vì điều đó. Được làm chính mình.

Ngành này bây giờ đang ngày càng trở nên phức tạp hơn với sự xuất hiện của các dịch vụ phát trực tuyến. Nhưng về cơ bản thì tôi cũng không quan tâm lắm. Ý tôi là vẫn luôn có người thích phim siêu anh hùng. Tôi cũng thích. Có một số người thắc mắc rằng liệu nó có gây hại cho ngành công nghiệp điện ảnh hay không. Tôi thì không nghĩ vậy. Rõ ràng là ai cũng lo lắng việc liệu mọi người có còn muốn ra rạp xem phim nữa hay không. Nhưng rồi Spider-Man công chiếu và mọi người lại ùn ùn kéo tới rạp. Vậy là tốt chứ sao. Hãy mừng vì điều đó.

Lúc nhỏ tôi cũng xem mấy phim như vậy mà, bây giờ cũng vẫn còn xem á. Nhưng tôi cũng thường tự hỏi là nếu bây giờ mình quay lại lúc mình 27 tuổi, làm bộ phim đầu tiên thì mình sẽ muốn làm một phim như thế nào? Nếu như mà lúc đó mà cũng có Netflix và các dịch vụ phát trực tuyến khác thì mình sẽ ra sao?

Gần đây thì tôi lại nghĩ về nó càng nhiều hơn. Bây giờ người làm phim có nhiều tiền lắm. Hồi tôi mới bắt đầu làm phim, người ta cũng có rất nhiều tiền để làm mấy cái home-movie. Ví dụ nếu bạn có thể làm một bộ phim với một triệu rưỡi hoặc hai triệu hoặc dưới ba triệu đô la, bạn có một vài lựa chọn. Bạn cũng có thể làm home-movie, vốn cũng gần tương tự như stream – người ta còn gọi nó là home video hay VHS hay mấy thứ tương tự vậy. Mấy thứ người ta đem về nhà xem giải trí. Vậy nên về cơ bản thị trường không có quá nhiều thay đổi lớn. Người ta vẫn có tiền cho những thứ như vậy.

Bây giờ thật khó để tìm được chính xác thứ mình muốn. Vì có quá nhiều thứ. Tôi là một trong những người dành cả tiếng đồng hồ xem menu và rồi kiệt sức. Thế là quyết định chuyển qua xem đấu bóng chày chứ không thèm xem phim nữa.

Kiểu như lúc nào đó sẽ có người, có thể là trong giới phê bình, giới thiệu cho tôi 3 tựa phim đáng xem, và tôi nghĩ rằng tôi thực sự nên xem. Nhưng khi tôi kiếm phim để xem thì tôi lại bị lạc trong cái menu khổng lồ đầy phim, vậy nên là tôi mất hứng. Tôi nghĩ khán giả bây giờ cũng đã trở nên lười biếng hơn rồi. Người ta liên tục trưng ra cho khán giả thấy hàng đống thứ hầm bà lằng nên người ta không biết nên xem cái gì. Người ta đã làm cho họ ngày càng trở nên lười biếng hơn và trì trệ hơn.

Đối với phim truyền hình thì tôi không hẳn là không muốn làm, chỉ là tôi không biết bắt đầu từ đâu. Tôi từng nói với Quentin Tarantino rằng: Tôi nghĩ không ai trong hai người chúng ta gặp vấn đề gì về việc viết. Vấn đề có thể nằm ở phong cách biên tập. Đôi khi chúng tôi đang viết thì phát hiện ra rằng có rất nhiều tư liệu để khai thác, nhiều đến nỗi có thể biến nó thành một series luôn á. Nhưng đó lại không phải là một giải pháp. Giải pháp không phải là dùng các tư liệu hạng B để làm ra một cái gì đó dài hơn. Giải pháp là cắt nó xuống, chỉ giữ lại những phần tinh túy nhất, kể câu chuyện một cách chặt chẽ và làm thành một bộ phim điện ảnh. Vậy nên tôi chưa bao giờ suy nghĩ một cách nghiêm túc rằng mình sẽ làm một series phim truyền hình. Tôi cũng không xem nhiều series. Vậy nên tôi không hiểu rõ cách nó hoạt động cho lắm. Cấu trúc là thứ mà tôi phải học. Tôi không có ý nói mình là người không biết gì. Tất nhiên tôi đã từng xem các series phim truyền hình, nhưng nhịp và cấu trúc để có thể viết thành kịch bản cho một câu chuyện phim nhiều tập là thứ mà sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức thì mới có thể học được. Những người trong ngành truyền hình có thể làm việc này rất tốt. Còn tôi ở thời điểm hiện tại, tôi vẫn chỉ như một du khách đi ngang qua mà thôi.

Về phim mà tôi thích nhất trong thời gian gần đây thì thực sự nhiều lắm. Không dễ để lựa chọn. Gần đây tôi có xem The French Dispatch, tôi thích phim đó lắm. Tôi cũng xem một bộ phim tên là The Good Fairy, một phim có Margaret Sullavan đóng, do Preston Sturges biên kịch. (Đây là một bộ phim hài lãng mạn ra mắt năm 1935 do William Wyler đạo diễn). Dù phim này đã khá lâu rồi nhưng gần đây tôi mới biết đến nó và xem nó.

Ngoài ra còn có một bộ phim tài liệu của Kevin Brownlow có tên là Hollywood. Nó được quay vào năm 1980 và là một series nhiều tập về thời kỳ phim câm. Điều thú vị là hầu hết những người xuất hiện trong phim đó đều vẫn còn sống. Ông ấy quay tất cả mọi người, từ các đạo diễn cho đến các diễn viên đóng thế và các minh tinh, hồi tưởng về sự khởi đầu của Hollywood. Tôi cũng đọc tự truyện của cinematographer Billy Bitzer. Ông ấy kể chuyện mình rời khỏi New York với D. W. Griffith và lập nghiệp. Mấy thứ đó khiến tôi rất xúc động. Tôi biết một chút về mấy chuyện đó. Nhưng đôi khi tôi nhận ra là mình đã dành cả đời để làm phim mà cho đến bây giờ vẫn không thực sự hiểu đầy đủ về lịch sử điện ảnh, nên những bộ phim như vậy khiến tôi thấy thú vị. Tôi tin rằng đối với những người làm phim trong thời kỳ phim câm, dù là D. W. Griffith hay Raoul Walsh; hay thậm chí là Howard Hawks cũng bắt đầu bằng việc làm phim câm, khi trò chuyện với những người đang ở đỉnh cao sự nghiệp trong giai đoạn chuyển tiếp từ phim câm sang phim có thoại đều sẽ thấy rất thú vị. Tôi thích nghe những câu chuyện và những cuộc trò chuyện như vậy.

Bình luận về bài viết này

Quote of the week

What should young people do with their lives today? Many things, obviously. But the most daring thing is to create stable communities in which the terrible disease of loneliness can be cured.

~ Kurt Vonnegut

Nếu thấy các bài viết hay và hữu ích, hãy mua cho Thuỳ một ly Marou