Tác giả: M.H. Rubin and Dr. Gina Talley
Thuỳ biên dịch
Thuật ngữ “quy tắc một phần ba” (the rule of thirds) xuất hiện lần đầu trong cuốn Remarks on Rural Scenery xuất bản năm 1797 của John Thomas Smith. Khi nói về sự cân bằng giữa ánh sáng và bóng tối trong một bức tranh, ông đã nhắc đến khái niệm này. Khi chia một khung hình thành ⅓ và ⅔ thì hình ảnh sẽ trông dễ chịu hơn so với các mức tỉ lệ khác.
Tuy nhiên, đây không phải là cách diễn đạt được sử dụng ngày nay.
Pictorialism
Một trong những thảo luận đầu tiên về bố cục trong nhiếp ảnh xuất hiện trong cuốn sách của nhiếp ảnh gia tiên phong Henry Peach Robinson xuất bản năm 1869, trong đó, Robinson nhấn mạnh giá trị của việc chuyển vị trí của chủ thể ra khỏi phần giữa của khung hình, lưu ý rằng “nếu đó là một đối tượng quan trọng, nó sẽ không bao giờ nằm ngay chính giữa khung hình…”
Thời đó, phần lớn mọi người cho rằng nhiếp ảnh là việc tạo ra một bản sao của thế giới bằng máy móc, nó thiếu tính sáng tạo. Tuy vậy, Robinson cho rằng nhiếp ảnh là một nghệ thuật. Cuốn sách của ông chủ yếu lấy ý tưởng từ hội hoạ, chỉ ra những điểm tương đồng giữa hai loại hình này; đây là nền tảng của một phong cách nhiếp ảnh có tên là “pictorialism” (phong cách nhiếp ảnh mà trong đó nhiếp ảnh gia sử dụng các kỹ thuật nhiếp ảnh để nhấn mạnh vẻ đẹp của chủ thể, điều chỉnh sắc điệu và bố cục để tạo ra hình ảnh mang giá trị mỹ thuật, trông giống như tranh vẽ chứ không đơn thuần là chụp lại thế giới thực) – và ông đã phổ biến ý tưởng rằng, để nhiếp ảnh được coi là nghệ thuật thì nó cần phải cạnh tranh được với các tác phẩm hội hoạ về giá trị thẩm mỹ của nó.
Thời đó, thời gian phơi sáng của camera là rất dài. Có nghĩa là chủ thể trong ảnh cần đứng yên một chỗ và do đó thường được bố cục trong hình một cách có chủ đích.
Các nhiếp ảnh gia theo phong cách pictorialism không chỉ nhấn nút chụp; họ thường bỏ thêm rất nhiều công sức để biến bức ảnh của họ trở thành “ảnh nghệ thuật”. Để làm được điều này, họ phải sử dụng rất nhiều kỹ thuật khác nhau: “làm mềm” độ sắc nét của hình ảnh, dùng giấy ảnh và loại phim đặc biệt, in màu bằng tay, kết hợp với các kỹ thuật xử lý âm bản. Họ thường chọn các chủ thể mang tính ngụ ngôn hoặc thần thoại và bối cảnh với nhiều chi tiết được sắp đặt một cách tỉ mỉ để tạo ra các bố cục mang tính trang trọng.
Nguồn gốc của một “quy tắc”: 1908
Năm 1908, ở đỉnh cao của phong trào nhiếp ảnh pictorialism, một cuốn sách về nhiếp ảnh đã đưa gợi ý của Robinson thành một quy tắc:
“Phải có một chủ thể chính trong bức ảnh… Các vị trí được đánh dấu gạch chéo là các vị trí quan trọng trong bố cục, vị trí yếu nhất của bố cục nằm ở trung tâm khung hình. Do đó, chủ thể chính nên được đặt ở khu vực các đường giao nhau, tức là ở gần nhưng không nằm ở trung tâm của bức hình.
Quy tắc này không dựa trên các nguyên tắc toán học hay hình học mà chỉ gợi ý rằng các nhiếp ảnh gia nên đặt chủ thể của hình ảnh tại các điểm được đánh dấu ở ⅓ khung hình chứ đừng nên đặt ở trung tâm khung hình.
Ý tưởng được đặt tên: 1942
Thời gian trôi qua, camera đã được cải tiến rất nhiều và đã có thể chụp được các khoảnh khắc ở giữa chuyển động, pictorialism được thay thế bởi các phong cách nhiếp ảnh hiện đại hơn và cách tiếp cận của các nhiếp ảnh gia mới cũng tự nhiên hơn. Khái niệm này đã bị lãng quên trong khoảng 20 năm và được xuất hiện trở lại vào khoảng năm 1942 với tên gọi chính thức là “quy tắc một phần ba” và được sử dụng cho tới ngày nay.
Từ năm 1869 đến 1942, trong mọi trường hợp, kiểu bố cục này được hiểu là: chủ thể sẽ gây ấn tượng tốt hơn nếu không nằm giữa khung hình. Nhưng với cách tiếp cận hiện đại hơn đối với nhiếp ảnh, người ta không còn nhắc nhiều về nó nữa.
Nhiếp ảnh gia phong cách pictorialism nói về việc sử dụng tỉ lệ vàng làm thước đo trong bố cục hình ảnh: những năm 1940
Trong hầu hết các diễn ngôn và tài liệu giáo dục về các phương thức tiếp cận nhiếp ảnh hiện đại, vẫn còn một số tương đối lạc hậu. Richard Neville Haile là một nhiếp ảnh gia phong cách pictorialism truyền thống. Ông là hội viên (và sau này là chủ tịch) của Viện Nhiếp ảnh gia Anh (Institute of British Photographers), hội viên của Hiệp hội Nhiếp ảnh Hoàng gia (Royal Photographic Society) và từng tổ chức triển lãm tại Học viện Nghệ thuật Hoàng Gia Luân Đôn (Royal Academy of Arts, London).
Ấn bản đầu tiên của cuốn Composition for Photographers: A Course of Instruction in the Art and Science of Composition as Applied to Portrait and Landscape Photography của ông xuất bản năm 1937 và được tái bản 7 lần trong khoảng từ năm 1937 đến 1952. Cuốn sách này hoàn toàn dựa trên một cách tiếp cận mang tính mỹ thuật đối với nhiếp ảnh (và chủ yếu được minh hoạ bằng tranh vẽ). Ông không nói về quy tắc một phần ba (dù là khái niệm hay thuật ngữ), có thể bởi vì nó chỉ áp dụng cho mỗi nhiếp ảnh, mà các bài học và ví dụ của ông thì dường như hoàn toàn đến từ hội hoạ.
Tuy nhiên, điều đặc biệt của cuốn sách đó là việc ông đề cập đến tỉ lệ vàng trong bố cục. Trong phần đó của cuốn sách, ông đã giải thích tỉ lệ vàng một cách cụ thể và chính xác bằng quy tắc toán học của Pytago và tóm tắt cách sử dụng nó: “Khi nói đến vấn đề tỉ lệ, tỉ lệ vàng; chúng ta thấy tầm quan trọng của việc bố cục chủ thể trong không gian hình ảnh…”
Cartier-Bresson lên tiếng phản đối: 1952
Cũng trong giai đoạn này, phóng viên ảnh nổi tiếng Henri Cartier-Bresson, trong chuyên luận nhiếp ảnh mang tính bước ngoặt của mình có tên là “The Decisive Moment” (Khoảnh khắc quyết định) được xuất bản năm 1952, đã đưa ra quan điểm – không phải về quy tắc một phần ba, mà là về cách tiếp cận cứng nhắc đối với các bố cục mang hơi hướng hội họa trong nhiếp ảnh. Cartier-Bresson là một nhiếp ảnh gia tiên phong, và cũng đồng thời là một hoạ sĩ được đào tạo bài bản, cuốn sách của ông thường xuyên chỉ ra những sự khác biệt giữa hội hoạ và nhiếp ảnh. Và ông cũng khá quen thuộc với các sách nhiếp ảnh của Haile, vốn nói về một phương thức tiếp cận trong nhiếp ảnh mà Cartier-Bresson có thể không thực sự ủng hộ. Cartier-Bresson đã gần như cầu xin người đọc đừng tiếp cận nhiếp ảnh theo hướng hội hoạ như vậy, và hãy tin vào bản năng của mình khi chụp ảnh:
Bố cục phải là thứ mà người chụp ảnh phải liên tục quan tâm đến, nhưng vào thời điểm chụp, nó chỉ có thể xuất phát từ trực giác của chúng ta, vì chúng ta muốn nắm bắt khoảnh khắc thoáng qua, và tất cả các mối tương quan đều đang chuyển động. Khi áp dụng quy tắc vàng, cặp la bàn duy nhất mà nhiếp ảnh gia có thể sử dụng là đôi mắt của chính mình. Bất kỳ phân tích hình học nào, làm giáng cấp hình ảnh xuống thành một lược đồ, chỉ nên được thực hiện sau khi bức ảnh đã được chụp, tráng rửa và in ra – lúc này nó chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là để phân tích và mổ xẻ bức ảnh. Tôi hi vọng rằng chúng ta sẽ không phải thấy cảnh các shop nhiếp ảnh bán thêm một cái khung nhỏ gắn lên kính ngắm để người chụp căn bố cục cho bức hình, và quy tắc vàng sẽ không bao giờ trở thành nỗi ám ảnh của người chụp ảnh. (Tiếc cho ông là bây giờ camera kỹ thuật số cho phép người dùng bật grid lên để căn khung rồi – người dịch).
Cartier-Bresson đã trực tiếp phản đối cách tiếp cận của Haile khi ông ám chỉ rằng việc áp dụng quy tắc vàng chỉ nên được thực hiện thông qua con mắt của nhiếp ảnh gia. Ông không chỉ đề cập đến quy tắc vàng của Haile mà còn đến bất cứ ý đồ bố cục theo hình học nào trong bức ảnh. Đó là cách tiếp cận của ông đối trong “Thời điểm quyết định” khi nhiếp ảnh gia tiết lộ trật tự không thể giải thích được và sự hài hoà về mặt hình ảnh trong sự hỗn loạn của cuộc đời.
Các khái niệm khác nhau bị kết hợp lại: 1955
Tạp chí Nhiếp ảnh Anh năm 1955 cũng lên tiếng phản đối những ý tưởng của thời đại pictorialism này trong một bài tiểu luận: “Chúng ta có đi khắp nơi để tìm kiếm đường cong chữ S nổi tiếng trong Line of Beauty của Hogarth không? Chúng ta đã nghiên cứu quy tắc toán học mà Pythagoras đã mô tả chưa? Chúng ta có dùng đường chân trời để cắt bức ảnh thành hai nửa không? Tất cả những điểm này đều liên quan đến câu trả lời thế nào là một bức ảnh đẹp.” Đó là một lập luận chống lại ý tưởng của các nhà hình học và những người theo phong cách pictorialism, nhưng đây là lần đầu tiên có người gộp quy tắc một phần ba và tỉ lệ vàng làm một.
Line of Beauty của Hogarth
Haile không nhắc đến quy tắc một phần ba trong các ghi chép của mình (mặc dù ông có nói về tỉ lệ trong ảnh chụp phong cảnh) nhưng ông là một trong những người gán khái niệm tỉ lệ vàng cho Pythagoras (vốn là không chính xác, tỉ lệ vàng được nhắc đến lần đầu tiên trong một cuốn sách của Euclid có tên Elements xuất bản năm 300 trước công nguyên).
Tỉ lệ vàng (hay còn được gọi là hình chữ nhật vàng hoặc đường xoắn ốc vàng) là một phát hiện thú vị từ thời Hy Lạp cổ đại và sau đó được kết nối với các cặp liền kề trong chuỗi Fibonacci. Đây là cách mà tự nhiên phát triển; và nó được áp dụng vào kiến trúc cũng như nghệ thuật. Tỉ lệ vàng là tỉ lệ ~1.618:1 rất quan trọng. Nhưng tỉ lệ vàng mang những khác biệt rõ ràng và cơ bản so với quy tắc một phần ba.
Đây là những ý tưởng khác biệt và không thể nào được gộp chung lại với nhau. Ngay cả khi nhìn hình minh hoạ, chúng ta cũng có thể thấy rõ rằng hai khái niệm này mang những cơ sở lý luận khác nhau.
Sự lẫn lộn: 1959
Có một số chuyện xảy ra vào những năm 1950 và không thể xác định rõ ai là người có lỗi nhiều nhất trong việc khiến cho rất nhiều người nhầm lẫn giữa tỉ lệ vàng và quy tắc một phần ba. Lúc đầu đó chỉ là một số những nhầm lẫn nhỏ, nhưng lại dần dà trở thành nhưng cái sai lớn.
Carleton Wallace, trong các cuốn sách self-help của mình đã nói về rất nhiều các chủ đề khác nhau. Wallace đã xuất bản ít nhất 10 cuốn sách về nhiếp ảnh. Trong cuốn The Complete Book of Photography xuất bản năm 1958, chúng ta lần đầu tiên thấy một sự thay đổi quan trọng trong việc định nghĩa quy tắc một phần ba. Mặc dù nó vẫn chưa được đặt tên, nhưng Wallace đã tạo ra một sự thay đổi nhỏ trong việc nhấn mạnh việc di chuyển chủ thể ra khỏi trung tâm khung hình đến vị trí điểm giao của các đường chia khung hình thành ba phần – các điểm mạnh nhất trong bố cục để đặt các đối tượng quan trọng của hình ảnh.
Trong những năm 1950, rất nhiều nhiếp ảnh gia trường phái pictorialism đã thảo luận một cách nghiêm túc và sâu sắc về việc tránh đặt chủ thể ở trung tâm bức hình, vốn là cái mà bây giờ chúng ta gọi là quy tắc một phần ba. Dù Haile đề xuất rằng việc bố cục các đối tượng trong khung hình nên được tuân theo tỉ lệ vàng, nhưng quan điểm này không mấy được hưởng ứng trong thời điểm đó và cũng không tìm thấy bất cứ một ghi chép nào về nó trong giai đoạn này. Phần lớn mối quan tâm về nhiếp ảnh liên quan đến những người theo chủ nghĩa hiện đại (modernist) và phong cách mà Cartier-Bresson khởi xướng đã xua tan những huyền thoại về những quan niệm hình thức này. Nhưng đây cũng là thời điểm mà những nhầm lẫn bắt đầu xuất hiện.
Các nghệ sĩ và học giả vẫn rất ít quan tâm. Các bài viết của tạp chí nhiếp ảnh nổi tiếng có tên là Aperture không có bất cứ đề cập nào đến các chủ đề này – tỉ lệ vàng, quy tắc một phần ba hay bất cứ quy tắc bố cục nào khác – trong suốt những năm 1950 và 1960. Vào năm 1959, phiên bản cải tiến bắt đầu xuất hiện trong một số ấn phẩm được xuất bản, ngay cả khi các chuyên gia cố gắng phản đối các ý niệm này.
Cuối cùng, năm 1959, Hiệp hội Nhiếp ảnh Hoàng gia đã cho ra đời tác phẩm This Year’s Photography và nhắc đến cả quy tắc một phần ba lẫn tỉ lệ vàng:
Không có loại hình nghệ thuật nào có thể phát triển khi bị hạn chế. Vậy nên chúng ta hãy quyên hết những gì giới phê bình và đánh giá nói trong những tháng mùa đông, quên đi tỉ lệ vàng và quy tắc một phần ba kỳ diệu, quên đi những bức tranh ai đó đã vẽ về ba cái cây trên đồi. Nếu bạn yêu thích cây cối, bạn sẽ muốn chụp ảnh chúng, cố gắng để miêu tả sự uy nghi, sức mạnh hoặc vẻ đẹp của nó. Hãy làm việc đó theo cách của bạn…
Ảnh hưởng của chiến tranh và quân đội Mỹ: 1960-1970
Năm 1965, khi chiến tranh Việt Nam đang leo thang, những ý tưởng này đã len lỏi vào quân đội. Trong những buổi hướng dẫn và đào tạo về bố cục nhiếp ảnh của quân đội, các ý tưởng của Haile được đưa vào ứng dụng trong nhiếp ảnh và video phóng sự của quân đội Hoa Kỳ.
Năm 1973, hải quân Hoa Kỳ đã áp dụng một phiên bản có thể coi là chính thức của quy tắc một phần ba trong các tài liệu đào tạo nhiếp ảnh cho phóng viên chiến trường. Trong năm 1979, quân đội đã mở rộng và hợp nhất quy tắc một phần ba với tỉ lệ vàng.
Quy tắc một phần ba, hay còn gọi là quy tắc tỉ lệ vàng, chia trường nhìn thành ba phần. Trong nhiếp ảnh, chúng ta phân chia khung hình thành ba phần theo chiều dọc và ba phần theo chiều ngang. Chủ thể của ảnh thường được đặt ở một trong bốn điểm giao nhau của các đường chia này. Việc bố trí chủ thể ở điểm giao nào tùy thuộc vào kích thước của chủ thể, hướng và chủ đề của ảnh.
Nhiếp ảnh đến với công chúng 1970 – 1980
Dù được áp dụng trong quân đội, quy tắc một phần ba đã có thể đã bị chìm vào quên lãng nếu nếu không có sự bùng nổ của giới nhiếp ảnh nghiệp dư sau này.
Nikon F ra đời năm 1959 là máy SLR tiên phong, được tích hợp một số tính năng quan trọng khiến máy ảnh trở nên thiết thực và dễ sử dụng hơn bao giờ hết; quan trọng nhất là công nghệ lấy nét mới.
Công nghệ mới xuất hiện lần đầu trên Nikon F sử dụng rangefinder để lấy nét
Thành công của dòng máy ảnh mới từ Nikon khiến cho Pentax và Canon cũng bắt tay vào cải tiến dòng máy SLR của mình trong những năm 1960.
Giới nhiếp ảnh nghiệp dư sử dụng các máy SLR mới thường có thói quen đặt điểm lấy nét trên rangefinder ở mũi của chủ thể, dẫn đến việc chủ thể được đặt ngay trung tâm khung hình trở nên cực kỳ phổ biến, kiểu bố cục này đôi khi khiến cho bức ảnh trở nên tương đối kỳ cục. Vậy nên việc khuyến khích mọi người sử dụng một quy tắc bố cục khác không phải đối xứng cũng nhờ đó mà xuất hiện nhiều hơn.Giới nhiếp ảnh nghiệp dư sử dụng các máy SLR mới thường có thói quen đặt điểm lấy nét trên rangefinder ở mũi của chủ thể, dẫn đến việc chủ thể được đặt ngay trung tâm khung hình trở nên cực kỳ phổ biến, kiểu bố cục này đôi khi khiến cho bức ảnh trở nên tương đối kỳ cục. Vậy nên việc khuyến khích mọi người sử dụng một quy tắc bố cục khác đối xứng cũng nhờ đó mà xuất hiện nhiều hơn.
Trong giai đoạn này, cả quy tắc một phần ba lẫn tỉ lệ vàng đều không xuất hiện trong những cuốn sách quan trọng và toàn diện về nhiếp ảnh.
Các tạp chí như Time, Life… được cho là những tổ chức hàng đầu quảng bá cho nhiếp ảnh trong giai đoạn đó đã xuất bản một series gồm 17 tập về chủ đề này năm 1971, tất cả đều không nhắc gì về các quy tắc hình học trong bố cục. Cuốn Bố cục Nhiếp ảnh năm 1974 khuyến khích những người học nhiếp ảnh bỏ qua “các quy tắc mà người ta chỉ cho bạn” và “quan sát việc sắp đặt các đối tượng trên hình bằng một tư duy không thành kiến.”
Ngày 31 tháng 12 năm 1978, biên tập viên ảnh của tờ New York Times, Roger Snyder đã kết thúc năm đó với bài tiểu luận có tên “Những bậc thầy trước đây không tuân thủ các quy tắc cứng nhắc.” Trong bài viết này, ông đưa ra những lập luận chống lại việc áp dụng các quy tắc hình học trong bố cục hình ảnh, như Cartier-Bresson đã làm trước đây. Cuối những năm 1970, có vẻ như ngành công nghiệp ảnh đã rất cố gắng để dập tắt những ý tưởng sai lầm này, nhưng có những áp lực từ giới nhiếp ảnh nghiệp dư và chủ nghĩa thực dụng của giới tiêu dùng để các tấm snapshot mà người bình thường chụp trông bớt nhàm chán (nó cũng là một chất liệu tốt để làm nội dung giáo dục).
Tuân thủ nguyên tắc, nhưng cũng không nhất thiết phải làm như vậy.
Năm 1992, một ấn bản của Tạp chí Nhiếp ảnh Đại chúng đã lan truyền một sự kết hợp giữa sự thật và thông tin sai lệch, và nó là điển hình của huyền thoại vẫn tồn tại cho đến ngày nay:
Kể từ thời điểm Joseph Nicéphore Niépce chĩa camera ra ngoài cửa sổ và chụp lại bức ảnh đầu tiên trên thế giới năm 1827, các nhiếp ảnh gia đã quan tâm đến việc đâu là cách tốt nhất để bố cục hình ảnh.
Những quy tắc phổ biến nhất bao gồm việc “giữ đường chân trời thẳng” và “tránh đặt các đối tượng trong hậu cảnh trùng với vị trí của chủ thể, gây cảm giác như nó mọc ra từ đầu của chủ thể vậy.” Ngay từ đầu, mọi người đã cố gắng để tìm ra phương pháp bố cục hình ảnh dựa trên các lý thuyết mỹ thuật/thẩm mỹ. Các nhiếp ảnh gia theo phong cách pictorialism đã có ảnh hưởng rất lớn, các lý tưởng của họ vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Họ tìm cách đạt được vẻ đẹp lý tưởng của hội họa trong các bức ảnh của mình và tin rằng đó là cách tốt nhất để làm được điều đó là áp dụng các quy tắc hội hoạ tân cổ điển hoặc hàn lâm vốn được các tổ chức nghệ thuật đương đại ưa chuộng, chẳng hạn như Học viện Hoàng gia Anh.
Họ dựa vào tỉ lệ vàng danh giá trong mỹ thuật cổ điển và thời Phục hưng Ý; tỉ lệ giữa tổng thể và các bộ phận của nó được coi là “nịnh” mắt người nhất. Tỉ lệ này xấp xỉ 8:13, 3:5 hoặc chính xác hơn là ⅓ : ⅔
Từ khái niệm này, các nhiếp ảnh gia phong cách pictorialism đã rút ra quy tắc một phần ba nổi tiếng, khuyên rằng để có được bố cục đẹp mắt nhất, ảnh nên được chia ra thành 1/3 và 2/3 theo chiều ngang và chiều dọc.
Không dễ để chỉnh lại phần lịch sử bị bóp méo này: “quy tắc một phần ba khuyên rằng để có được bố cục đẹp mắt nhất thì hình ảnh nên được chia thành 1/3 và 2/3” là khái niệm rất gần với bản gốc được hoạ sĩ John Thomas Smith đưa ra năm 1797; nhưng đó không phải là điều mà người Hy Lạp ghi nhận từ các quan sát của mình, và cũng không phải là cách diễn đạt được sử dụng trong thế kỷ 20. Các nhiếp ảnh gia theo phong cách pictorialism không bố cục dựa trên nguyên tắc của mỹ thuật Hy Lạp, họ cũng không đưa ra ý tưởng dời chủ thể ra khỏi trung tâm khung hình trên bất kỳ lý thuyết mỹ thuật nào, mặc dù đó là một cách tiếp cận mang tính “hội hoạ”. Bài viết trên có vẻ như chủ yếu đề cập đến Haile – tư cách là thành viên Học viện Hoàng gia đã giúp ông có được một sự tín nhiệm nhất định đối với cách tiếp cận tỉ lệ vàng của ông, nhưng đây cũng không phải là phương pháp mà các nhiếp ảnh gia theo phong cách pictorialism đã sử dụng, cũng không phải nền tảng phát triển của quy tắc một phần ba.
Bất chấp lịch sử như vậy, kể từ sau bài báo đó, có vô số sách báo khác xuất bản trong giai đoạn những năm 80 và 90 đã khiến nó trở thành một quy tắc thành văn được áp dụng rộng rãi và có sức thuyết phục nhất định.
Bằng cách kết hợp quy tắc một phần ba với tỉ lệ vàng, tính chính xác của toán học bị hoà lẫn với sự tôn trọng lịch sử.
Tóm tắt
- Khái niệm “quy tắc một phần ba” lần đầu xuất hiện năm 1797, nhưng nó mang một ý niệm rất khác so với những gì được mô tả ngày nay. Đây cũng không phải là nguồn gốc của thuật ngữ này.
- Nguồn gốc của quy tắc bố cục này (lúc này chưa được đặt tên) được xác lập năm 1908 vào thời điểm cao trào của phong cách pictorialism, lúc này người ta chỉ khuyên nhiếp ảnh gia đừng đặt chủ thể ở trung tâm khung hình, đặt nó dịch ra phía rìa một chút thì tốt hơn.
- Năm 1942, quy tắc này được đặt tên và hệ thống hoá, mặc dù vậy nó chỉ là một ý tưởng nhỏ và không gây nhiều ảnh hưởng đến nhiếp ảnh.
- Những năm 1940, hiếp ảnh gia Richard Neville Haile khởi xướng việc sử dụng tỉ lệ vàng trong nhiếp ảnh, nhưng tỉ lệ vàng này không liên quan gì đến quy tắc một phần ba. Việc Haile áp dụng tỉ lệ vàng trong nhiếp ảnh cũng bị phản đối kịch liệt vào năm 1952.
- Carleton Wallace đã viết rất nhiều sách và làm phổ biến phiên bản “hiện đại” của quy tắc một phần ba, vốn không thực sự giống như bản gốc của nó. Và năm 1963, ông gộp hai khái niệm vốn không liên quan đến nhau là quy tắc một phần ba và tỉ lệ vàng – đây là tác giả quan trọng đầu tiên làm điều này.
- Phiên bản hợp nhất giữa quy tắc một phần ba và tỉ lệ vàng này hầu như bị giới nhiếp ảnh lãng quên cho đến khi được quân đội Hoa Kỳ áp dụng và phổ biến trong nhiều thập kỷ. Dù vậy, nó vẫn chưa được phổ biến đối với công chúng.
- Phiên bản hợp nhất vẫn tồn tại cho đến khi xuất hiện trở lại trong sách báo về nhiếp ảnh xuất bản ở giai đoạn những năm 80 và 90, những năm 1990 nó được coi là giáo điều.
Kết luận
Quy tắc một phần ba đã tiến hoá trong một thế giới mà việc chụp ảnh diễn ra rất chậm và việc bố trí các yếu tố trong khung hình – thường là cho ảnh chân dung và ảnh phong cảnh – được cân nhắc một cách rất kỹ lưỡng. Quy tắc này không còn được coi trọng khi công nghệ máy ảnh và phim mới cho phép người dùng chụp nhanh hơn và tạo ra các nội dung sống động hơn và bố cục mang nhiều tính bản năng hơn. Các nhiếp ảnh gia phong cách hiện đại gần như hoàn toàn bỏ qua các quy tắc bố cục theo kiểu hình học, hơn nữa, những người theo phong cách pictorialism cũng phải thừa nhận rằng họ không thể thực sự tuân theo một hình thức cứng nhắc, mặc dù họ vẫn rất quan trọng quy cách.
Các quy tắc bố cục dưới bất kỳ hình thức nào đều bỏ qua một khía cạnh quan trọng và cơ bản của nhiếp ảnh: những thứ trong khung hình không phải là những vật thể hình học có toạ độ mà là những hình dạng phức tạp, có ý nghĩa riêng và mang tính liên tưởng. Cách mắt người quét một cảnh thường bị chi phối bởi ánh sáng, nhưng về cơ bản nó cũng bị ảnh hưởng bởi kiến thức và văn hoá – những gì chúng ta biết ảnh hưởng đến những gì chúng ta thấy. Bộ não lấp đầy những thông tin không đầy đủ. Và nhiếp ảnh gia là bậc thầy trong việc cung cấp cho người xem những loại thông tin không đầy đủ (hình phẳng, bị cắt cúp, các yếu tố bị mờ hoặc tối, những cảm xúc trên khuôn mặt nhân vật…) để họ trải nghiệm. Các đối tượng có liên hệ với nhau, việc đặt chúng cạnh nhau mang rất nhiều ý nghĩa. Tất cả những yếu tố này ảnh hưởng đến bố cục hình ảnh, và không có bất cứ yếu tố nào dựa trên các nguyên tắc hình học.
Các sách nhiếp ảnh hiện nay liên tục nhắc đến quy tắc một phần ba/tỉ lệ vàng, thường nói quá về lịch sử cũng như tầm quan trọng của nó, dù đôi khi nó thậm chí còn không có thực. Nó thậm chí còn đẻ ra cả một ngành công nghiệp nhỏ với đủ mọi loại “quy tắc” về bố cục hình ảnh, không liên quan gì đến cách thức hoạt động của hệ thống thị giác của người, cũng không liên quan đến bố cục trong những bức ảnh thú vị.
Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng nhiếp ảnh không áp dụng cùng các nguyên lý trong thiết kế đồ hoạ. Tỉ lệ vàng (và các quy tắc bố cục khác) được thêm vào tương đối gần đây một cách tình cờ. Bất chấp những sự hấp dẫn mang tính lười biếng của chúng (và những hình minh hoạ đẹp mắt), những nguyên tắc này không liên quan đến việc hiểu về bố cục trong nhiếp ảnh và sẽ có thể khiến cho việc thực sự phát triển các kỹ năng bố cục hình ảnh trở nên khó khăn hơn. Mặc dù các nghệ sĩ trong lĩnh vực đồ hoạ có thể sử dụng các tỉ lệ này để làm nền tảng cho thiết kế và hội hoạ, nhưng nhiếp ảnh không dựa trên nền tảng này mà thay vào đó nó dựa trên thế giới thực phức tạp và khả năng sàng lọc thế giới phức tạp đó của máy ảnh.
Một khi khái niệm về các quy tắc trong bố cục hình ảnh được gieo vào đầu của học sinh, rất khó để thoát khỏi nó và bắt đầu khám phá xem những nhiếp ảnh gia thực thụ đang làm gì khi họ chụp ảnh. Nhưng đây chính xác là bản chất của những quy tắc này trong nền giáo dục ngày nay: học để có thể quên nó đi.
Tôi tin rằng việc sử dụng các quy tắc này, bao gồm quy tắc một phần ba và tỉ lệ vàng, giúp ích cho việc hướng dẫn cho học sinh mới bước chân vào thế giới nhiếp ảnh. Nhưng việc cho rằng đây là phương pháp cơ bản hay có nguồn gốc trong lịch sử nhiếp ảnh thì là không đúng. Quy tắc một phần ba, đặt chủ thể bên ngoài trung tâm khung hình, là một khái niệm của những người theo phong cách pictorialism nhưng nó không phải là một quy tắc cứng nhắc để phải tuân theo. Tỉ lệ vàng cũng không tồn tại trong lịch sử nhiếp ảnh và chỉ mới được thêm vào gần đây, nó cũng chắc chắn không phải là quy tắc một phần ba.
Tôi tin rằng vấn đề không nằm ở bản thân quy tắc một phần ba mà vấn đề là sẽ có ai đó hỏi: “nếu không phải nó thì là cái gì?” Làm sao để giải thích cho các nhiếp ảnh gia rằng nhiếp ảnh là chọn bố cục một cách bản năng? Làm sao để dạy họ cách cảm nhận? Có vẻ như đây là những câu hỏi đi đúng hướng.
Đây là một vấn đề nhức nhối trong hơn một thế kỷ; đủ khó để những người không chuyên phải mò mẫm và bám víu vào bất cứ loại quy tắc nào mà người ta đưa ra. Tôi không đồng ý rằng đó là những thứ không thể nào dạy được, chỉ là nó không thể dạy được qua hình học mà thôi.
Năm 1955, tạp chí Aperture đã đăng một bài xã luận nói về một ngôn ngữ mới trong nhiếp ảnh, nhanh chóng tập trung vào “bố cục”:
Chúng tôi dùng từ “bố cục” (vốn được mượn từ hội hoạ) cho nhiếp ảnh. Nhưng nó không nhằm mục đích mô tả việc một nhiếp ảnh gia là cô lập một bức ảnh trên một khung hình với thông qua máy ảnh và các thông số chính xác của nó. Có từ nào có thể mô tả chính xác những gì diễn ra trong nhiếp ảnh không?



Bình luận về bài viết này