Tác giả: Nikhil Krishnan
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch

Trước đây thì ngay cả những nhà tâm lý học đáng kính cũng không thực sự nói về “tẩy não”. Thuật ngữ này mang chút sáo rỗng của những kỉ niệm đáng xấu hổ thời kì Chiến tranh Lạnh – gián điệp của C.I.A. và nỗi hoang tưởng “Cộng sản nằm dưới gầm giường”. Công cụ Ngram Viewer của Google, được dùng để phân tích tần suất xuất hiện trong văn bản in của các cụm từ được chỉ định, xác nhận rằng việc sử dụng thuật ngữ “tẩy não” đã gia tăng trơr lại trong hai thập kỷ gần đây. Điều gì khiến người ta mang thuật ngữ này trở lại?

Một trong những nguyên nhân có thể là do sự trỗi dậy của các công nghệ bị nghi ngờ là có sức mạnh kiểm soát tâm trí, chủ yếu là mạng xã hội. Một nguyên nhân khác có thể là là sự phân cực chính trị cực đoan trong thời đại hiện nay. Khi những người thân thiết xung quanh bạn bắt đầu lải nhải những điều mà họ tin rằng là họ biết về virus, vắc-xin và biến đổi khí hậu – với một niềm tin không lung lay về tính xác thực của những niềm tin đó – bạn có thể tự hỏi: Điều gì đã xảy ra với mấy người này vậy? Đây không đơn thuần là bất đồng ý kiến thông thường. Có khi nào mấy người đó đã bị… tẩy não không?

Đừng tự mãn; những người đó có thể cũng đang tự hỏi điều tương tự về bạn. Vài năm trước, tờ Psychology Today đã đăng một bài viết với tiêu đề: “Bạn bè của bạn có thể đã bị tẩy não về mặt chính trị nếu…” cùng một danh mục Mục cuối cùng trong đó là: “Họ cho rằng tất cả những người không đồng ý với họ đều đã bị tẩy não.” Vậy thì hãy chờ đã – có phải việc bạn có thể đánh giá được rằng liệu người khác có bị tẩy não hay không đồng nghĩa với việc bạn chưa bị tẩy não? Liệu có quá dễ dàng không?

Gần đây có một số cuốn sách đề cập đến chủ đề tẩy não – trong đó có cuốn “Brainwashed: A New History of Thought Control” của Daniel Pick, “Dark Persuasion: A History of Brainwashing from Pavlov to Social Media” của Joel E. Dimsdale và “Nervous Systems: Brain Science in the Early Cold War” của Andreas Killen. Họ có chung một sự e dè mang tính học thuật về từ mà họ buộc phải sử dụng cho chủ đề của mình. Dimsdale viết: “Vâng, thuật ngữ “tẩy não” là ngớ ngẩn và phi khoa học. Không ai lại đi hiểu nó theo nghĩa đen, nhưng nghĩa ẩn dụ của nó lại rất mạnh mẽ.”

Trong cuốn sách “The Instability of Truth: Brainwashing, Mind Control, and Hyper-Persuasion”, Rebecca Lemov, một nhà sử học khoa học tại Harvard, có một cách tiếp cận khác. Cô cho biết người ta thường hỏi liệu tẩy não có thực sự tồn tại hay không. “Câu trả lời là có,” cô viết mà không hề do dự. Trên thực tế, “những gì chúng ta gọi là tẩy não không phải là hiếm mà là phổ biến.”

Tất nhiên, những từ như “tẩy não” không có ý nghĩa cố định độc lập với cách sử dụng của chúng. Định nghĩa về nó có thể không chính xác một cách cụ thể và có xu hướng mang các ý nghĩa mở rộng. Khi Frantz Fanon viết về những nỗ lực thuộc địa ở Algeria với “lavage de cerveau” – một cụm từ tiếng Pháp có nghĩa là “tẩy não”, mô tả những nỗ lực của chính quyền thực dân ở Algeria nhằm kiểm soát tâm trí và tư tưởng của người dân bản địa, hoặc khi một nhà bình luận vào những năm bảy mươi cáo buộc Tổng thống Richard Nixon đã “tẩy não” công nhân da trắng, khiến họ sợ hãi và ám ảnh về sự xâm nhập của Cộng sản, từ này ám chỉ một ý nghĩa, dù định nghĩa về nó vẫn còn khá lỏng lẻo.

Tuy nhiên, sự hồi sinh gần đây của thuật ngữ này làm dấy lên sự nghi ngờ. Những cáo buộc tẩy não không phải là những tuyên bố chung chung; chúng được coi là một lời giải thích cụ thể cho lý do tại sao ai đó lại tin vào những điều mà chúng ta thấy lố bịch. Lời giải thích đó quy những niềm tin đó cho sự thao túng có chủ ý thay vì lập luận hợp lý hoặc niềm tin cá nhân. Làm như vậy, nó coi những người có niềm tin “đáng lên án” là nạn nhân chứ không phải tác nhân, không chỉ xứng đáng bị lên án mà còn xứng đáng được thông cảm – và có lẽ còn xứng đáng được điều trị nữa. Vào thời kỳ hoàng kim của các giáo phái vào những năm bảy mươi, phương pháp điều trị đó được gọi là “cải tạo”. Đây có phải là những gì mà những người thân lú lẫn xung quanh chúng ta cần? Một quá trình tái giáo dục có hệ thống nhằm đưa ai đó trở lại với những niềm tin và hành vi thông thường, được xã hội chấp nhận?

Lemov viết: khái niệm “tẩy não” xuất hiện lần đầu tiên vào giữa thế kỷ XX trong hồ sơ của Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (Office of Strategic Services), tiền thân của C.I.A. Thuật ngữ này trở nên nổi bật phần lớn nhờ các bài viết của một nhà báo người Mỹ tên là Edward Hunter. Ông tuyên bố rằng đó là một bản dịch của một cụm từ tiếng Trung, nhưng nó có thể là, như ông đã tuyên bố ở nơi khác, một thuật ngữ mà ông tự đặt ra để mô tả các kỹ thuật thuyết phục của Trung Quốc.

Những kỹ thuật này được biết đến khi người ta áp dụng nó trong Chiến tranh Triều Tiên. Là một tù nhân chiến tranh, Morris R. Wills phải đối mặt với một loạt những trải nghiệm khó khăn, đau khổ và thiếu thốn – ông bị suy dinh dưỡng và bị giam giữ trong điều kiện bẩn thỉu, có thể bị đem đi hành quyết bất cứ khi nào. Kinh hoàng xen lẫn với buồn chán. Điều kiện sống của ông được cải thiện hơn đôi chút khi Wills được chuyển đến nơi gọi là Trại Một. Thức ăn tốt hơn, được gửi thư về nhà và thậm chí còn được chơi bóng chuyền.

Đó dường như là giai đoạn đầu của một quy trình được gọi là cải tạo. Wills được xác định là thành viên của các tầng lớp bị bóc lột, một mục tiêu đầy hứa hẹn cho phương pháp này. Suy ngẫm về những trải nghiệm của mình nhiều năm sau đó, ông nói, “Người ta không thực hiện việc tẩy não bằng cách gắn điện cực vào đầu bạn.” Thay vào đó, nó là “một quá trình dài, kinh khủng, mà ở đó một người đàn ông từ từ – từng bước, từng chút – trở nên hoàn toàn bị thuyết phục, như tôi đã từng, rằng Cộng sản Trung Quốc đã mở khóa bí mật cho hạnh phúc của con người và rằng Hoa Kỳ được điều hành bởi những chủ ngân hàng giàu có, những người theo kiểu McCarthy và ‘những kẻ xâm lược đế quốc’”.

Những lời bàn tán về tẩy não coi những người có niềm tin “đáng lên án” không phải là tác nhân mà là nạn nhân, có lẽ cần được điều trị. MINH HỌA CỦA BEN WISEMAN

Lý thuyết đằng sau phương pháp này, như được Chủ tịch Mao đã nói rõ, có vẻ không tệ lắm.  Mao viết, người ta không thể bị ép buộc trở thành người Mác-xít. Thay vào đó, ông đề xuất các phương pháp mang tính “dân chủ” như là “thảo luận, phê bình, thuyết phục và giáo dục”. Một giai đoạn quan trọng của quá trình này được gọi là “nói ra nỗi cay đắng”. Những người lính Mỹ, giống như những người nông dân Trung Quốc mà phương pháp này lần đầu tiên được thử nghiệm, có rất nhiều nỗi cay đắng để nói: về nạn phân biệt chủng tộc và nghèo đói ở quê nhà, và về sự phân biệt đối xử trong lực lượng vũ trang. Wills bị buộc phải tự xem xét nội tâm, viết một cuốn tự truyện. Ông và các tù nhân chiến tranh khác phải ngồi hàng giờ để nghe giảng bài về lý thuyết Mác-xít.

Khi được yêu cầu biện minh cho “hệ thống Mỹ”, Wills – người thậm chí còn không hiểu ý nghĩa của “hệ thống Mỹ” là gì – thấy mình có xu hướng nói những lời theo hướng mà những người giam giữ ông gọi là Tiến bộ (trái ngược với Phản động). Ông bắt đầu tin rằng xã hội Mỹ đang thối rữa; con đường của Trung Quốc là tương lai. Ông chọn không hồi hương. Nhưng những tù nhân khác đưa ra quyết định tương tự được gửi đến làm việc trong các trang trại và nhà máy giấy, còn ông thì được gửi đến Đại học Nhân dân ở Bắc Kinh.

“Hãy nhớ này ông Libertarian lớn lao và sang trọng, đối với mẹ của mình thì không ai tự mình thành đạt cả.”

Quá trình tẩy não không bao giờ kết thúc. Người ta liên tục ông thực hiện những hành động phô trương thể hiện sự “ăn năn” – Wills đã phải tham gia các hội thảo “tự phê bình”. Bây giờ ông được dạy nhiều hơn về chủ nghĩa Mác và lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn chứng kiến một vụ hành quyết công khai. Nhưng cuối cùng ông đã ở lại Trung Quốc trong mười hai năm.

Khi ông đã trở lại Hoa Kỳ và có điều kiện để suy ngẫm về những gì đã mình đã trải qua, những tường thuật hồi tưởng của Wills về trải nghiệm của mình rất sáng tỏ. Rõ ràng là những người giam giữ ông tại Trung Quốc đã thành công, ít nhất là trong một thời gian, trong việc tạo ra một sự thay đổi thực sự trong suy nghĩ của ông. Ông, như chính ông đã nói, “hoàn toàn tin tưởng”.

Nếu chúng ta tin lời Wills, chúng ta có thể tự hỏi về tuyên bố của Mao rằng không thể ép buộc ai có niềm tin chân thành. Khi tuyên bố điều này, Mao lặp lại một ý tưởng cũ trong tư tưởng châu Âu hiện đại, một ý tưởng nổi bật nhất và gây ảnh hưởng nhất trong luận văn năm 1689 của John Locke, “Một bức thư về sự khoan dung”. Locke lên án việc sử dụng sự cưỡng ép trong các vấn đề đức tin – có liên quan đến những điều mà các thẩm phán Tây Ban Nha đã làm – ông lập luận rằng đơn giản là việc cưỡng ép không có hiệu quả. Niềm tin thực sự là sản phẩm của việc “tâm trí tự thuyết phục chính nó”, ông viết. Một đòn tra tấn hiệu quả có thể khiến nạn nhân di chuyển tay chân như kẻ tra tấn bảo họ, hoặc thậm chí nói những lời – tuyên xưng đức tin, thú nhận tội lỗi – mà kẻ tra tấn thì thầm vào tai họ. Nhưng “của tâm trí con người là như vậy, người ta không thể ép buộc nó tin vào bất cứ điều gì bằng sức mạnh bên ngoài.”

Quan điểm của Locke có nhiều nét tương đồng với một tuyên bố triết học tổng quát hơn về niềm tin: rằng không phải cứ đưa ra quyết định là người ta có thể tin vào điều gì đó (niềm tin không phải là một hành động tự nguyện mà chúng ta có thể kiểm soát hoàn toàn). Ví dụ, hãy thử tin rằng cuốn tạp chí (hoặc cái máy tính hoặc máy tính bảng hoặc điện thoại) trước mặt bạn là một con rắn độc, hoặc cốc cà phê của bạn được làm bằng dung nham nóng chảy. Bạn có thể nói những lời này ra nếu bạn muốn, nhưng nhịp tim ổn định của bạn sẽ tố cáo bạn.

Dù sao thì, mặc dù niềm tin không thể bị ép buộc trực tiếp, nhưng môi trường và hoàn cảnh có thể được thao túng để tạo ra niềm tin mong muốn. Ngay cả vào thế kỷ XVII, mọi người cũng thấy những hạn chế trong quan điểm của Locke. Một giáo sĩ nhà thờ Oxford tên là Jonas Proast đồng ý rằng niềm tin không thể bị ép buộc trực tiếp, nhưng ông cũng lạnh lùng nói rằng, quan tòa có thể áp đặt “những hình phạt nhất định đối với những người từ chối chấp nhận giáo lý của họ… mà có thể khiến họ phải suy nghĩ lại về đức tin của mình.”

Để ép buộc ai đó tin vào điều gì đó đòi hỏi phải che giấu sự ép buộc trong quá trình này. Những người bị tẩy não không thể tự nhận ra là mình là bị tẩy não; như vậy sẽ chỉ ra rằng bộ não của họ vẫn chưa được tẩy. Họ chỉ có thể mô tả một cách mạch lạc trải nghiệm của mình như một trải nghiệm nhìn thấy ánh sáng, nâng cao nhận thức của họ, được “uống viên thuốc đỏ”. Như Lemov trích dẫn một người nói với cô về tẩy não: nếu phương pháp này hiệu quả, nó “tự xóa bỏ chính nó”.

Vì vậy, nếu môi trường của bạn được thiết kế để loại trừ các quan điểm khác biệt thì chúng ta có nên nói rằng bạn đang bị ép buộc tin vào điều gì đó không? Việc có nên gọi đây là niềm “tin bị ép buộc hay không” là vấn đề sở thích trong việc sử dụng thuật ngữ. Các phương pháp được sử dụng để khiến người khác tin vào điều gì đó không được phân chia rõ ràng thành hai loại: thuyết phục (persuasive) và cưỡng ép (coercive) – mô hình tẩy não cho thấy rằng sự phân biệt đó là sai lầm. Như Lemov viết, lặp lại lời của nhà tâm lý học Edgar Schein, đó là “không phải chỉ là sự thuyết phục thuần túy hay sự cưỡng ép thuần túy mà là cả hai: sự thuyết phục cưỡng ép”.

Cụm từ “sự thuyết phục cưỡng ép” truyền tải hiệu quả vấn đề chính của hành động mà nó mô tả. Nó tước đoạt quyền tự chủ cơ bản của con người – nó ngăn cản bạn tự đưa ra quyết định. Nếu đúng là như vậy thì liệu tòa án hình sự có bắt bạn chịu trách nhiệm về những gì bạn làm khi bạn bị tẩy não không?

Câu hỏi này đã được trả lời dứt khoát trong phiên tòa xét xử Patricia (Patty) Hearst, vào năm 1976. Hai năm trước đó, Hearst, cháu gái của ông trùm báo chí William Randolph Hearst, là sinh viên đại học tại Berkeley. Cuộc sống của cô thay đổi mãi mãi khi cô lọt vào mắt xanh của các thành viên Quân đội Giải phóng Symbionese, một nhóm du kích chống tư bản.

Họ bắt cóc cô và giữ cô trong một tủ quần áo, bị bịt mắt, trong gần hai tháng. Cô bị các thủ lĩnh của nhóm hãm hiếp nhiều lần khi bị giam cầm, họ nói với cô rằng việc cô từ chối là không phù hợp với tinh thần “đồng chí” trong nhóm.

Ngay sau đó, cô được đề nghị một sự lựa chọn danh nghĩa. Cô có gia nhập nhóm của họ không? Hay cô có muốn được tự do? Rõ ràng là những lựa chọn này chỉ là ảo tưởng, rằng cô chỉ có thể lựa chọn giữa việc gia nhập nhóm hoặc bị giết. Cô đã chọn cuộc sống. Hoặc, như cô nói sau này, “Tôi đã điều chỉnh suy nghĩ của mình để trùng với suy nghĩ của họ.” Như với những tù nhân chiến tranh Triều Tiên trước cô, đó chỉ thuần tuý là sự giả vờ, trong hoàn cảnh đó, không phải là một lựa chọn thực sự. Sau này, cô nghĩ lại: “Khi trải qua tất cả những chuyện đó, tôi đã thực sự là một người lính trong Quân đội Giải phóng Symbionese.”

Hơn hai tháng sau vụ bắt cóc của cô, camera giám sát đã ghi lại cảnh Hearst cướp một ngân hàng ở San Francisco, tay cầm súng. Khi cuối cùng cô bị bắt, cô nặng 87 pound và – theo đánh giá của nhà tâm lý học Margaret Singer – cổ chỉ còn là “một thây ma có chỉ số IQ thấp, cảm xúc thấp”. Nhà tâm thần học Robert Jay Lifton đã phỏng vấn Hearst trong khoảng mười lăm giờ và sau đó tuyên bố cô là một “trường hợp kinh điển” của tẩy não. Trong thời gian bị giam giữ, cô đã từ bỏ lòng trung thành với S.L.A. Khi cô bị xét xử vì vai trò của mình trong vụ cướp ngân hàng, các luật sư của cô lập luận rằng cô là nạn nhân của sự cưỡng ép và ép buộc.

Đó là một chiến lược rủi ro. “Tôi đã bị tẩy não” không phải là một biện pháp phòng vệ được pháp luật công nhận. Như Lemov chỉ ra, một trong những nhà tâm thần học làm chứng với tư cách là chuyên gia cho bên bào chữa đã không giúp ích gì cho Hearst khi thản nhiên thừa nhận rằng “tẩy não” không phải là một thuật ngữ “có ý nghĩa y tế”. Ông nói, nó đã trở thành “một loại túi đựng để mô tả bất kỳ loại ảnh hưởng nào mà người giam giữ tác động lên người bị giam giữ, nhưng điều đó không chính xác lắm từ quan điểm khoa học hoặc y tế.”

Bên bào chữa đã thất bại. Patty Hearst bị kết tội và bị kết án bảy năm tù. Sau khi cô đã hoàn thành gần hai năm, Tổng thống Jimmy Carter đã giảm án xuống “thời gian đã thụ án”. Mãi đến ngày cuối cùng của Bill Clinton tại vị, vào năm 2001, cô mới được xóa bỏ hoàn toàn những tội danh và hậu quả pháp lý của vụ án.

Lemov hỏi, tại sao các luật sư lại thấy tẩy não “không thể được triển khai như một khuôn khổ miễn tội hợp pháp”? Khái niệm này rõ ràng đặt các luật sư bào chữa vào một tình huống khó xử kép. Nếu tẩy não không hiệu quả, bị cáo khó có thể tuyên bố nó như một biện pháp phòng vệ. Nhưng, nếu nó hiệu quả, bị cáo đang hành động theo niềm tin của chính họ và không còn bị cưỡng ép. Bốn mươi năm sau phiên tòa xét xử Hearst, một người phỏng vấn NPR đã đặt câu hỏi: “Cô ấy bị cưỡng ép, hay cô ấy đã thực sự tin vào nó?” Lemov hỏi rằng tại sao lại không phải là cả hai yếu tố đó cùng kết hợp với nhau? Tại sao không nói rằng “Hearst đã bị ép buộc phải tin vào nó”?

Như Lemov thấy, vấn đề là mô hình trực quan mà chúng ta sử dụng để chẩn đoán về tẩy não là một “trục trặc nhận thức hợp lý”. Do đó, những người bị tẩy não thường phải chịu sự chế giễu. Những người lính bị tẩy não trong Chiến tranh Triều Tiên được coi là những kẻ ngốc đáng thương đã “sa vào” chủ nghĩa Cộng sản, Lemov nói. Chúng ta cũng có thể thấy một ví dụ tương đồng trong thế kỷ XXI: sự khinh miệt nhắm vào những người mất tiền khi tin vào một giáo phái tiền điện tử.

Lemov nghĩ rằng nhận thức này thay đổi khi chúng ta thừa nhận vai trò của chấn thương tâm lý trong tẩy não. Có lẽ vậy. Nhưng tuyên bố này phù hợp với giả thuyết rộng hơn của cô ấy rằng “những gì chúng ta gọi là tẩy não không phải là hiếm mà là phổ biến” như thế nào? Nếu chấn thương là một điều kiện cần thiết cho tẩy não như cô ấy nói, thì chấn thương tâm lý phổ biến hơn chúng ta nghĩ. Tuy nhiên, cô ấy khẳng định rằng cô ấy không nằm trong số những người theo chủ nghĩa tình cảm dễ tin “nhìn thấy chấn thương tâm lý ở khắp mọi nơi”. Vậy tẩy não phổ biến đến mức nào?

Theo các nhà sử học hiện đang nghiên cứu về chủ đề tẩy não, vấn đề này mang những rủi ro trong thời đại hiện nay. Joel Dimsdale, trong “Dark Persuasion”, kể lại trường hợp của Alexander Urtula, người đã tự kết liễu đời mình sau khi nhận được 47.000 tin nhắn từ bạn gái  thúc giục anh ta tự tử. Dimsdale hỏi, “Nếu bạn có thể sử dụng mạng xã hội để thuyết phục một người thân của bạn làm điều gì đó khủng khiếp thì bạn có thể thuyết phục những người khác trong vòng bạn bè và người quen rộng hơn không?” Với các nguồn lực – ví dụ như các “troll farms” – các nhóm người được trả tiền để tạo ra và lan truyền thông tin sai lệch hoặc gây rối trên mạng xã hội (có thể hiểu là seeder hoặc thuỷ quân) – thì có vẻ như đôi khi bạn có thể làm được chuyện đó thật đấy.

Sức mạnh của thuỷ quân nằm ở khả năng thao túng môi trường nhận thức. Những gì từng là một tiếng nói đơn độc trong góc phố trở thành một điệp khúc được nhiều người lặp lại và lan truyền. Dimsdale viết, “Khi người quan sát nhận được cùng một thông điệp từ nhiều nguồn, họ thấy các thông điệp đáng tin hơn, ngay cả khi chúng lố bịch.”

Đã có rất nhiều người phẫn nộ khi biết rằng các nhà nghiên cứu Facebook đang can thiệp (theo hướng thao túng) cảm xúc của người dùng – thực hiện những điều chỉnh nhỏ trong phân phối nội dung đến người dùng mạng xã hội. Lemov gọi đây là “kỹ thuật cảm xúc quy mô lớn”. Nhưng cô lưu ý rằng sự phản ứng dữ dội từ người dùng không ngăn cản các nhà nghiên cứu chạy những thử nghiệm này; nó chỉ khiến họ kín tiếng hơn về kết quả của họ. Một nhà nghiên cứu trong dự án nói rằng phản ứng này tương đương với việc mọi người nghĩ, “Bạn không thể đùa giỡn với cảm xúc của tôi. Điều đó giống như giỡn mặt với tôi. Đó là thao túng tâm lý.”

Và, theo một nghĩa nào đó, đó chính là thao túng tâm lý. Nhưng cụm từ đó, giống như “tẩy não”, gặp phải một vấn đề nếu chúng ta muốn đưa nó vào các khung pháp lý: Chẳng phải mọi thứ gây ảnh hưởng đến suy nghĩ, mong muốn hoặc cảm xúc của chúng ta đều là một hình thức kiểm soát tâm trí/thao túng tâm lý sao? Đằng sau sự khó chịu của chúng ta là một ảo tưởng về sự tự do nhận thức hoàn toàn, không bị xiềng xích. Bất kỳ sự lệch lạc nào khỏi lý tưởng đó đều được dán nhãn là thao túng. Nếu chúng ta bám vào tiêu chuẩn đó, thì chắc chắn, tất cả chúng ta đều bị tẩy não. Nhưng tiêu chuẩn đó là một sự vô lý. Rõ ràng là tâm trí của chúng ta được định hình bởi thế giới chúng ta đang sống, bao gồm cả những gì người khác nói. Đây không phải là những gì chúng ta nghĩ khi nói về thao túng tâm lý/kiểm soát tâm trí.

Thay vào đó, ý tưởng của chúng ta là: tự do không phải là chịu sự chi phối bởi ý chí của người khác. Lemov trích dẫn một nhận xét đầy nhiệt huyết của nhà xã hội học Zeynep Tufekci về cách quyền lực doanh nghiệp trực tuyến sử dụng “các công cụ mới và phương pháp lén lút để mô hình hóa tính cách của chúng ta một cách lặng lẽ, xác định những điểm yếu của chúng ta, xác định mạng lưới mối quan hệ xã hội của chúng ta, tác động và định hình những ý tưởng, mong muốn và giấc mơ của chúng ta một cách hiệu quả.” Đó là mối lo ngại thực sự ngày nay – không chỉ là ảnh hưởng mà là sự kiểm soát được che giấu và mang tính cá nhân.

Sự nhấn mạnh của Lemov về chấn thương tâm lý cho thấy rằng khái niệm tẩy não có thể không hữu ích lắm trong việc hiểu rõ mọi thứ mà mạng xã hội đang gây ra cho người dùng của nó. Morris Wills bị bỏ đói và doạ dẫm khi là tù nhân chiến tranh. Patty Hearst bị nhốt trong một tủ quần áo và bị tấn công tình dục. Xã hội học đương đại mời gọi chúng ta, có lẽ theo một cách đúng đắn, mở rộng khái niệm truyền thống để bao gồm vào đó cả những trải nghiệm của giai cấp công nhân về quá trình phi công nghiệp hóa, cũng như sự bấp bênh của người lao động tri thức cổ cồn trắng bị từ chối một công việc an toàn. Câu hỏi đặt ra là: Có thể so sánh những gì mà người dùng TikTok bình thường đang phải chịu đựng với những gì Wills và Hearst đã phải chịu đựng không?

Có một sự mỉa mai khác ở đây. Phần lớn những gì Wills tin khi sống ở Trung Quốc – rằng chủ nghĩa xã hội vượt trội hơn chủ nghĩa tư bản, rằng Hoa Kỳ là một cường quốc đế quốc được điều hành bởi một tầng lớp tài phiệt tham nhũng – được chia sẻ bởi nhiều người trẻ ngày nay, những người không phải chịu đựng điều gì gây nên chấn thương cho họ, ngoài một nền giáo dục khai phóng điển hình. Các giáo sư của họ tất nhiên sẽ phản đối hàm ý rằng họ đã tẩy não sinh viên của mình, nhưng đó chính xác là những gì các nhà phê bình từ lâu đã cáo buộc họ trên các phương tiện truyền thông bảo thủ.

Đó là một mô hình quen thuộc trong thời đại phân cực của chúng ta. Cánh hữu cáo buộc cánh tả sử dụng các tổ chức mà họ thống trị – bộ máy quan liêu liên bang, các tổ chức phi lợi nhuận, trường đại học, Hollywood và các phương tiện truyền thông “di sản” – để tẩy não công chúng. Đến lượt mình, cánh tả đưa ra cáo buộc tương tự chống lại cánh hữu, chỉ ra các chương trình phát thanh, các mạng lưới truyền hình có xu hướng ủng hộ một đảng phái chính trị cụ thể và podcast gia trưởng (manosphere podcasts – một tập hợp các blog, diễn đàn trực tuyến và mạng xã hội, nơi những người đàn ông bày tỏ quan điểm và ý kiến về các vấn đề liên quan đến nam giới, nữ giới và các mối quan hệ giữa hai giới). (Mỗi bên lên án hoạt động truyền thông xã hội của bên kia.) Đương nhiên, không ai thừa nhận rằng mình cũng đã làm những việc mà họ lên án ở đối thủ của họ. Nhưng điều đó là có thể đoán trước: chúng ta thì thuyết phục; còn họ thì tẩy não.

Trường hợp của vị giáo sư cấp tiến có phù hợp với mô hình thao túng độc hại này không? Nghĩ lại thì, chúng ta nên làm gì với những người Cộng sản đã tẩy não những người lính Mỹ? Hoặc các thành viên của Quân đội Giải phóng Symbionese – chủ yếu là người da trắng, tầng lớp trung lưu và có học thức tốt – những người có vẻ rất chân thành tin tưởng vào những lời hùng biện của họ, kêu gọi “cái chết dành cho lũ phát xít đang ăn trên cuộc sống của người dân”? Có phải họ cũng bị tẩy não để tin vào điều đó không? Hay niềm tin đó được hình thành trong họ theo cách mà tất cả chúng ta làm – kết quả của một quá trình nửa-ý-thức chỉ quan tâm một nửa đến bằng chứng và sự thật?

Chúng ta có thể thừa nhận rằng thuật ngữ “tẩy não” có khả năng giải thích phần nào đó cho những gì đã xảy ra với một số cá nhân phải chịu đựng căng thẳng phi thường và những nỗ lực cải tạo vất vả. Nhưng chúng ta không cần phải tìm đến nó khi chúng ta tìm cách mô tả và hiểu nguyên do tại sao một đám đông người không thấy – không hiểu được – những điều chúng ta thấy hiển nhiên. Đơn giản là có quá nhiều cách khác để về hiểu niềm tin của họ.

Các quan điểm dị giáo – đặc biệt là các quan điểm chống lại luật lệ, chống lại những quy tắc hoặc chuẩn mực được thiết lập – hấp dẫn một phần vì chúng trái ngược với những điều hiển nhiên, những điều mà mọi người thường chấp nhận mà không cần suy nghĩ nhiều. Nếu niềm tin của chúng ta là hiển nhiên, làm thế nào chúng ta có thể sử dụng chúng để phân biệt nhóm của chúng ta với những nhóm khác? Làm thế nào để sử dụng niềm tin của chúng ta nhằm phân định một bản sắc xã hội, giúp các thành viên của một nhóm cảm thấy gắn kết và khác biệt với những người bên ngoài? Ngay cả trong các lĩnh vực chính thống hơn, rất nhiều niềm tin được tuyên bố công khai, ví dụ như: “sự đa dạng của chúng ta là sức mạnh của chúng ta” – có thể không phải là niềm tin thực sự nếu chúng ta định nghĩa niềm tin là điều gì đó phải chịu trách nhiệm trước sự thật. Theo nhà triết học Daniel Williams, những niềm tin này nên được hiểu là những dấu hiệu nhận biết nhóm, những biểu hiện của lòng trung thành, những cam kết sâu sắc đến mức chúng ta không thể nghi ngờ chúng. Vì những câu nói sáo rỗng này không phải là những tuyên bố về sự thật, chúng ta không nên áp dụng cho chúng các khuôn khổ giải thích được thiết kế để giải thích cách mọi người tin vào những điều kỳ lạ.

Chúng ta có thể hiểu nhiều hành vi và niềm tin của con người thông qua những động lực thông thường của con người, chẳng hạn như: mong muốn nhận được sự chấp thuận và công nhận từ những người xung quanh, và cách các động cơ xã hội có thể tưởng thưởng cho những hành vi hoặc niềm tin kỳ lạ, gây sốc, và trừng phạt những hành vi hoặc niềm tin hợp lý, thông thường. Mạng xã hội củng cố những xu hướng này bằng cách nuông chiều chúng và cho phép chúng hoạt động trên một phạm vi chưa từng có. Ngay cả những lực lượng thông thường, khi hoạt động trên quy mô lớn, cũng có thể tạo ra những hiệu ứng phi thường.

Mặc dù niềm tin có thể được sử dụng như những huy hiệu – những dấu hiệu bộ lạc, những biểu tượng được sử dụng để xác định các thành viên của một nhóm, được chọn không hẳn là vì độ chính xác thực nghiệm của chúng mà đôi khi là vì chúng thể hiện những đặc điểm của chúng ta – rất nhiều người tin vào những quan điểm kỳ lạ, không dựa trên sự thật. Đó không phải là một sự đối phó, hoặc một sự khoe khoang; đó là những gì họ coi là thực tế. Còn họ thì sao?

Có một động cơ đạo đức có ý tốt, nếu mang tính bảo trợ, đằng sau xu hướng kết luận rằng niềm tin khác biệt của người khác có được là do tẩy não, cho dù đó là biểu hiện của lòng trung thành, cam kết thực tế cứng rắn hoặc tương tự. Việc dán nhãn mọi người là bị tẩy não cũng tương đương với việc coi họ là một trong những kẻ bị nguyền rủa – những linh hồn lạc lối mà chúng ta, với tư cách là những vị cứu tinh, phải cứu chuộc. Tuy nhiên, có thể chính những phức cảm cứu tinh của chúng ta mới là những điều chúng ta cần rũ bỏ.

Năm 1960, nhà triết học Karl Popper cho rằng sự cám dỗ trong việc quy kết những niềm tin sai lầm cho sự thao túng nham hiểm đến từ một giả định sai lầm rằng “sự thật là hiển nhiên”. Nếu sự thật là hiển nhiên, thì có nghĩa là việc không nắm bắt được sự thật đó phải phản ánh “những nỗ lực của các thế lực âm mưu giữ chúng ta trong sự ngu dốt, đầu độc tâm trí của chúng ta bằng cách lấp đầy chúng bằng sự giả dối.”

Nhưng, ngay cả khi đối mặt với một thế giới của những người có quan điểm mà chúng ta thấy khó hiểu, tại sao lại cho rằng họ là nạn nhân của một âm mưu lớn – hoặc là nạn nhân của bất cứ thứ gì khác? Có lẽ sự thật không rõ ràng như vậy. Việc khám phá nó đòi hỏi nỗ lực và một chút may mắn. Những người khác sẽ coi những điều khác nhau là đúng vì con đường của họ khác với con đường của chúng ta. Một ông anh họ có đầu óc toàn tin vào những thuyết âm mưu  không nhất thiết là nạn nhân của thao túng tâm lý/kiểm soát tâm trí; anh ta có thể chỉ đơn giản là đi lạc vào những hang thỏ của trí tuệ, nơi bằng chứng ít quan trọng hơn niềm tin. Việc coi anh ta là một nạn nhân của sự thao túng ban cho anh ta một sự tha thứ không xứng đáng. Khả năng đáng lo ngại nhất không phải là hàng triệu người đã bị tẩy não. Mà là họ chưa bị tẩy não.

Bình luận về bài viết này

Quote of the week

What should young people do with their lives today? Many things, obviously. But the most daring thing is to create stable communities in which the terrible disease of loneliness can be cured.

~ Kurt Vonnegut

Nếu thấy các bài viết hay và hữu ích, hãy mua cho Thuỳ một ly Marou