Tác giả: Peter Schjeldahl
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch
Mặc dù Cézanne là một nghệ sĩ vĩ đại đã được giới chuyên môn, các nhà lịch sử nghệ thuật và công chúng thừa nhận tài năng và tầm quan trọng, nhưng một số người trong chúng ta vẫn cảm thấy mình không thể thích ông nhiều như chúng ta biết mình nên thích.

Một số người trong chúng ta không thích Paul Cézanne, dù sự vĩ đại của ông là không thể chối cãi và chúng ta biết rằng đối với những nghệ sĩ vĩ đại thì chúng ta ít nhiều đều nên yêu thích. Riêng tôi, tôi đã vật lộn với (những tác phẩm của) ông trong suốt cuộc đời yêu nghệ thuật của mình. Những người khác, như tôi đã xác nhận trong các cuộc trò chuyện gần đây với những người hâm mộ Cézanne, đều rất kinh ngạc và bàng hoàng khi nghe bất cứ điều gì dù chỉ một chút tiêu cực về ông ấy. Triển lãm Cézanne Drawing ở Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (Museum of Modern Art – MoMA) với khoảng 280 tác phẩm trên giấy (nhiều quá đúng không? Thật ra là không, bởi vì người ta dùng số lượng để làm gia tăng cảm giác về nhất lượng của các tác phẩm), có một tác động tích lũy gần như mang tính thần học đối với cả những người tin và những người hoài nghi, tương tự như một câu chuyện sáng thế, một chương Genesis của chủ nghĩa hiện đại.
Đây là sự trở về nguồn cội của MoMA, nơi đã khởi xướng câu chuyện về mỹ thuật hiện đại vào năm 1929 với một triển lãm tranh bao gồm của van Gogh, Seurat, và Gauguin cũng như Cézanne, người có phong cách độc đáo với những hình thái rời rạc khiến cho tranh của những người khác trông tương đối bảo thủ trong cách họ xây dựng và bố cục tranh. Ông nổi bật vào thời điểm đó, bây giờ cũng vẫn như vậy, nhờ cách thể hiện gay gắt mang tính phân tích về hình thức và thờ ơ với phong cách. Hình thức và vẻ ngoài trong các tác phẩm của Cézanne là một ấn tượng chứ không phải là một sự hoàn thiện. Ông đã cách mạng hoá nghệ thuật thị giác, thay vì cố gắng tạo ra những hình ảnh hoặc cảm giác về thực tế (ảo ảnh) sao cho chúng trông giống như thật hoặc có chiều sâu, ông tập trung vào việc tập hợp các nét vẽ, mảng màu một cách có ý thức, đòi hỏi người xem phải sử dụng trí óc để kết nối và diễn giải chứ không thể chỉ xem bằng mắt thường.
Bạn không thể chỉ “nhìn” một cách thụ động vào một tác phẩm của Cézanne, ngoại trừ một số tác phẩm cuối đời tuyệt đẹp. Bạn phải nghiên cứu nó, ghi nhận cách nó được thực hiện – trong các bức vẽ, với những mớ bòng bong của đường nét và những mảng màu nước. Mỗi chi tiết truyền tải cái nhìn trực diện của nghệ sĩ vào một chủ thể nhưng hiếm khi cố gắng phục vụ một bố cục thống nhất. Cézanne chân thành một cách dữ dội trong cách nhìn của mình, đúng với những gì ông gọi là “cảm giác nhỏ bé” của mình về cách mọi thứ, từng chút một, lọt vào tầm mắt ông. Ông đã biến tầm nhìn hội họa thành sự rèn luyện ý chí kiên định của người nghệ sĩ và là một thách thức đối với sự hiểu biết của người xem. Thoạt nhìn, triển lãm có vẻ như một thử thách quá sức, với vô số tác phẩm, hầu hết là nhỏ, để bạn lướt qua và xem xét. Chúng có vẻ rất giống nhau – và thực tế là như vậy, nhưng mỗi tác phẩm vẫn mang một cường độ và sự tập trung riêng, mang lại những trải nghiệm mới mẻ cho người xem khi họ chuyển từ tác phẩm này sang tác phẩm khác. Dù triển lãm lớn đến đâu, nó vẫn có thể được coi là một mẫu nhỏ của sự sáng tạo phi thường. Thường thì tôi không thích đọc mấy cái chủ thích nhỏ đi kèm theo tranh cho lắm, nhưng những dòng chú thích trong triển làm này do Giám tuyển Jodi Hauptman và Samantha Friedman viết thì rất chính xác và giàu thông tin. Dù có mang tính thánh hoá hay không thì sự kiện này vẫn có tính giáo dục rất cao.

Cézanne là người nhút nhát, đến mức ông sống gần như khép kín. Một số người ở Paris, bao gồm cả Édouard Manet, coi ông là một kẻ nhà quê thô lỗ đến từ miền nam nước Pháp mặc dù ông là con trai của một gia đình khá giả. Các tác phẩm trong thời kỳ đầu của ông thường vụng về và kỳ lạ, chủ yếu trong giai đoạn những năm 1860-1870, khi ông ở độ tuổi hai mươi và ba mươi, sục sôi với những tưởng tượng bạo lực về cưỡng hiếp và giết người. Một người đàn ông đâm một người khác trên một con đường ở nông thôn. Một gã đàn ông lịch lãm tỏ ra ngạc nhiên khi bước vào một căn phòng đầy xác chết. Phụ nữ khoả thân xuất hiện như những đối tượng của sự gợi cảm thái quá, đôi khi được tôn lên giữa những người đàn ông sùng bái đầy ham muốn. Rõ ràng ông đã cố gắng thu hút sự chú ý, nhưng không được đón nhận rộng rãi, sự công nhận đối với ông chủ yếu giới hạn trong một nhóm nhỏ, trong đó có người bạn thân lâu năm là nhà văn nổi tiếng Émile Zola.
Điều xảy ra tiếp theo là một sự thăng hoa đáng chú ý của những cảm xúc hỗn loạn thành một tham vọng khắc khổ, để, như Cézanne sau này đã diễn đạt, “biến chủ nghĩa Ấn tượng thành một thứ gì đó vững chắc và bền bỉ như nghệ thuật của các bảo tàng.” Chất xúc tác của sự thay đổi này là Camille Pissarro, người hơn ông chín tuổi, người đã hướng dẫn ông các kỹ thuật của trường phái nghệ thuật Ấn tượng, họ duy trì tình bạn thân thiết cho đến khi đường ai nấy đi vì vụ Dreyfus, lúc đó Cézanne đã thụ động đứng về phía những người bài Do Thái công khai như Renoir và Degas. Pissarro là người tinh tế nhất trong số các họa sĩ Ấn tượng hàng đầu, nghĩ ra những phương pháp để thể hiện sự đặc biệt cho từng phần của bức tranh, ví dụ như thay vì vẽ một đường viền rõ ràng cho các vật thể, ông sử dụng màu sắc của không gian xung quanh để tạo ra ranh giới, làm cho các vật thể hòa quyện hơn với môi trường. Ông không coi phần cạnh của đối tượng là một đường phân cách tuyệt đối mà là một vùng chuyển tiếp, nơi màu sắc thay đổi để phân biệt các vật thể và không gian. Cézanne thì miễn cưỡng sao chép các mô típ trong hội hoạ và điêu khắc cổ điển, dần dần từ bỏ sự thống nhất trong bố cục tranh của Pissarro để tập trung vào việc “ghi chú” những cảm nhận và cấu trúc của thực tế quan sát được theo cách riêng của mình, thay vì tái hiện lại nó. Các bức vẽ của ông thường để trống nền, đôi khi lại tô đầy nó. Đó là một sự thay đổi triệt để, coi thường cả tính chân thực lẫn trí tưởng tượng.
Cézanne không sợ sai lầm. Bạn có thể nhìn thấy điều đó trong các bức vẽ hình người dựa trên tượng điêu khắc. Nếu có một nét vẽ không chính xác, ông cũng không thèm sửa nó (dụng cụ vẽ mà ông dường như không bao giờ đụng tới chính là cục tẩy): ông vẽ chồng các nét khác lên. Về cơ bản thì nó có sự chính xác trong đó. Sự độc lập táo bạo của ông có được là nhờ sự cô lập có chủ ý, tại trang trại của gia đình ông ở Aix-en-Provence, cách xa môi trường cạnh tranh của Paris, nơi ngay cả những nghệ sĩ tiên phong nhất vào thời điểm đó cũng phải sống bằng doanh số bán tranh. Ông tương đối nổi tiếng trong giới nghệ sĩ và các nhà sưu tập táo bạo, trong khi liên tục bị công chúng chế giễu. Triển lãm Hồi tưởng năm 1907 đã gây ra một sự bùng nổ, giúp công chúng và giới phê bình nhận ra đầy đủ tầm quan trọng và sự đổi mới trong nghệ thuật trưởng thành của Cézanne một năm sau khi ông qua đời vì viêm phổi ở tuổi 67. Có lẽ hơi quá khi nói rằng ông đã thay đổi mọi thứ trong lịch sử nghệ thuật. Nhưng chắc chắn ông đã tạo ra một sự “bất an” nhất định cho cả những nghệ sĩ không trực tiếp theo phong cách của ông.
Cézanne vẽ gần như mỗi ngày, luôn ý thức về mục đích cơ bản nhưng cũng đầy thách thức của hội họa là tái hiện không gian ba chiều trên một bề mặt hai chiều. Những tác phẩm vĩ đại nhất của ông ra đời vào những năm cuối đời, phần nào tái hiện kịch tính thị giác, đặc biệt là trong bức The Bathers và một số bức tranh tĩnh vật (yêu thích của tôi) vẽ trái cây và đồ dùng gia đình, mang lại một cảm giác mạnh mẽ về sự hiện diện vật chất, như thể người xem có thể nhìn và thậm chí “cảm nhận” được xung quanh những khối hình đó. Những quả táo vẫn ngon ngọt nhưng lại mang sự chắc chắn của những quả đạn pháo đại bác. Các bức chân dung vẽ vợ ông, Hortense, và người làm vườn của ông cũng mang ấn tượng này – bản thân họ cũng được coi là một đồ vật trong nhà, dù có vẻ như Cézanne quan tâm đến họ như những linh hồn sống. Theo mắt tôi, chỉ có một vài bức chân dung ông vẽ con trai mình, Paul, đang ngủ, là mang tính người.

Tính “vật thể” thu hút ông một cách mạnh mẽ, trong những diễn giải lặp đi lặp lại không mệt mỏi về, ví dụ như, ngọn núi Sainte-Victoire gần đó, có đến 8 phiên bản hầu như không khác nhau của ngọn núi này trong triển lãm. “Tính hiện diện” cũng thống trị. Bạn hiếm khi cảm thấy bất kỳ sự thu hút đam mê nào từ phía Cézanne đối với các chủ thể của ông, mà chỉ là một sự đáp ứng kiên trì, thậm chí ám ảnh đối với sự tồn tại của chúng. Ông không thể không miêu tả chúng, bởi vì chúng không thể không tồn tại. Dường như ông không hề biết đến sự nhàm chán. Sự quan tâm của ông đối với thế giới hữu hình là vô tận. Thành quả khiến tôi nhớ đến một câu ngạn ngữ của William Blake: “Nếu kẻ ngốc cứ khăng khăng giữ lấy sự rồ dại của mình, hắn sẽ trở nên khôn ngoan.” Cách tiếp cận ngẫu nhiên của Cézanne đã chiến thắng trong sự kết hợp bề mặt với chiều sâu, điều này đã xóa bỏ phối cảnh bằng cách định vị cái gần và cái tương đối xa bằng bóng và màu sắc, người xem cảm nhận được cả cái gần và cái xa đồng thời trong một sự cân bằng thị giác ngày càng hoàn thiện. Tất cả những gì còn lại để chủ nghĩa Lập thể giới thiệu là sự phân mảnh hình học của các chủ thể trong không gian nông, trừu tượng: một chức năng trang trí đi chệch khỏi sự trung thành không lay chuyển của Cézanne đối với các sự kiện.
Vậy vấn đề của tôi là gì? Một phần là do sự thiếu kiên nhẫn của tôi với những đòi hỏi của Cézanne trong việc phải gắng sức nhìn nhận, tập trung cao độ và phân tích kỹ lưỡng khi xem tác phẩm. Tôi mệt mỏi với việc phải tỏ ra thông minh thay vì được thanh nhàn thụ hưởng nghệ thuật. (Tôi vốn dĩ yêu thích việc được các bức tranh của van Gogh, Gauguin và Seurat nuôi dưỡng thị giác của mình.) Nhưng sự bất mãn của tôi không làm tôi phủ định Cézanne với tư cách là một nhà cách mạng. Chủ nghĩa hiện đại, xét cho cùng, là một ý tưởng tốt đến mức nào chứ? Nó tan rã, khoảng năm 1960, giữa vô số các hình thức mới trong khi vẫn là, vâng, một nghệ thuật của bảo tàng. Nó trở thành biểu tượng cho gu thẩm mỹ tinh tế hiện đại, sinh ra nhiều loại hình nghệ thuật trừu tượng quay trở lại mối tương quan sáng tạo giữa hình và nền của Cézanne. Nó cũng truyền cảm hứng cho một số người tin rằng nghệ thuật có thể đóng vai trò trong việc thay đổi thế giới theo hướng “thông minh hơn”, mặc dù kết quả không phải lúc nào cũng tích cực. Thế giới chỉ chú ý đến nó một cách đặc biệt mà thôi. Sự lạc quan ban đầu đầy nhiệt huyết của chủ nghĩa hiện đại không thể tiếp tục tồn tại sau lò mổ của Thế chiến thứ nhất và sự khải huyền chính trị của Cách mạng Nga, là những sự kiện đã làm xói mòn niềm tin vào sự tiến bộ của nhân loại, những niềm tin mà chủ nghĩa hiện đại dựa vào để biện minh cho những thay đổi thẩm mỹ của mình. Việc theo đuổi sự mới mẻ trong nghệ thuật, ban đầu là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự sáng tạo, dần trở thành một thói quen, một hiệu ứng sáo rỗng, mất đi ý nghĩa ban đầu. Đối với tôi, thứ mất đi là sự kỳ lạ – thứ mà tôi đang cố gắng hình dung lại – điều chắc chắn đã ảnh hưởng đến những người đầu tiên xem tranh Cézanne, khi ông bắt đầu đảo lộn những truyền thống đã ít nhiều liên tục kể từ thời Phục hưng. Tôi đã thấy khó chịu khi hồi tưởng quá khứ và cố gắng hình dung lại những phản ứng ban đầu không chỉ giới hạn trong trường hợp của Cézanne. Nó đạt đến đỉnh điểm đối với tôi trong triển lãm “Cézanne Drawing,” ngay cả khi tôi cùng những người khác cúi đầu trước thiên tài của nghệ sĩ.


Bình luận về bài viết này