Tác giả: Jia Tolentino
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch
Cũng không có gì lạ khi chúng ta thấy con người ngày nay thường quá tự phụ, nhưng cuốn sách “Sự ích kỷ của người khác” (The Selfishness of Others) của Kristin Dombek chỉ ra cho chúng ta thấy sự ái kỷ sâu sắc trong chính quan điểm đó về thế giới.
Khi bạn nghe tới từ “kẻ ái kỷ” hay “người tự luyến”, ai là người đầu tiên xuất hiện trong đầu bạn? Rất nhiều phải không? Có thể là tất cả mọi người luôn. Có lẽ là người yêu của bạn. Có lẽ là nhà văn mà bạn không thích. Có lẽ một số người bạn thân của bạn. Quan niệm cho rằng tính ái kỷ có mặt ở khắp mọi nơi và càng ngày càng gia tăng đã là một niềm tin đã ăn sâu vào xã hội trong nhiều thập kỷ nay. Trong cuốn sách mới của mình có tên là “Sự ích kỷ của người khác: Một tiểu luận về nỗi sợ đối với sự Ái kỷ” (“The Selfishness of Others: An Essay on the Fear of Narcissism”), Kristin Dombek đã làm lung lay quan niệm đương đại phổ biến đó, phá vỡ nó từ bên trong. Thật dễ để đồng ý rằng mọi người ngày nay nói chung đều quá ái kỷ. Dombek, với tư cách là người chuyên viết tiểu luận và thỉnh thoảng cũng phụ trách chuyên mục tư vấn trên tạp chỉ, đang theo đuổi việc phân tích sự ái kỷ sâu sắc và mang tính lừa dối vốn có trong chính cái nhìn về thế giới đó.
Dombek giải thích: khái niệm ái kỷ bệnh lý xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 khi bác sĩ kiêm nhà văn người Anh Havelock Ellis mô tả hành vi tình dục được thúc đẩy bởi sự hấp dẫn đối với bản thân kiểu “giống Narcissus.” Freud đã tiếp thu khái niệm này, dán nhãn ái kỷ là “sự tự mãn của một số phụ nữ tự tin” và “hành vi của những người đàn ông đồng tính”. Sau này, hai nhà phân tâm học người Áo Otto Kernberg và Heinz Kohut đưa khái niệm ái kỷ vào một bối cảnh lâm sàng mới, tập trung nghiên cứu vấn đề ái kỷ trên những bệnh nhân có cảm giác “trống rỗng và vô nghĩa” và đồng thời mang đến cảm giác bất an, hung hăng và tự mãn. Phương pháp phân tích mà Kohut đã phát triển được gọi là “tâm lý học bản ngã” (self psychology), khuyến khích sự đồng cảm với người ái kỷ. Kernberg lại cho rằng việc đối đầu, nghi ngờ và bệnh lý hoá người ái kỷ là cách duy nhất để giúp bệnh nhân điều trị và vượt qua rối loạn.
Mô hình của Kernberg là mô hình chủ đạo trong cách hiểu hiện đại về ái kỷ – cho rằng chứng tự luyến không phải là một cơ chế phòng vệ hay một phản ứng tạm thời với hoàn cảnh, mà là một “tình trạng của một bản ngã thất bại.” Có thể bạn đã từng nghe nói đến Bản đánh giá Nhân cách Ái kỷ (Narcissism Personality Inventory – NPI) với 9 mục được xuất bản năm 1979, cùng năm với cuốn “Văn hoá Ái kỷ” (The Culture of Narcissism) của Christopher Lasch. Cuốn sách lập luận rằng xã hội Mỹ nói chung đang tiến gần đến sự lệch lạc lâm sàng. Lasch viết: “Đối với người ái kỷ, thế giới là một tấm gương.” Một năm sau đó, chứng rối loạn nhân cách ái kỷ đã được thêm vào trong Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) trong lần xuất bản thứ ba của nó (DSM-III).
Dombek dành rất nhiều trang trong số 138 trang sách để nói về lịch sử khoa học xã hội của chứng ái kỷ, và trong đó cô ấy cũng đề cập đến rất nhiều dẫn chứng có liên quan: nhà văn Tucker Max – nổi tiếng với phong cách tự mãn và có phần thô lỗ, nhà tâm lý học Stanley Milgram – nổi tiếng với thí nghiệm về sự vâng lời, tác phẩm Metamorphoses của Ovid – chứa câu chuyện về Narcissus và một website về self-help có tên Narcissism Uncovered, anh bạn trai thi thoảng có vẻ tự cao tự đại của chính cô và một cô gái từ Atlanta với màn xuất hiện tệ hại trong chương trình “My Super Sweet 16”. Thông qua các ví dụ đa dạng mà cô ấy đã trình bày, một luận điểm được đưa ra: người ái kỷ là có thật, một phần không nhỏ là vì chúng ta tin rằng họ là người ái kỷ.
Mặc dù rối loạn nhân cách ái kỷ đã được công nhận là một bệnh, nhưng việc xác định liệu một người có mắc chứng ái kỷ hay không về cơ bản vẫn mang nhiều tính chủ quan và riêng tư. Không bàn đến những ca bệnh rõ ràng, điển hình như Anders Breivik – một kẻ giết người hàng loạt nổi tiếng ở Na Uy. Với những trường hợp gây tranh cãi hơn, tính cách cá nhân của bạn sẽ ảnh hưởng đến việc bạn đánh giá liệu rằng người ta có phải là ái kỷ hay không. Việc xác định một người có phải là ái kỷ hay không thường không được diễn ra một cách khách quan, người bị bạn xem là ái kỷ thường là người thân thiết với bạn, hoặc là thành viên của thành viên của một nhóm mà bạn được khuyến khích về mặt văn hóa hoặc được khuyến khích về mặt chuyên môn để không thích. Các nhà khoa học xã hội thuộc thế hệ baby-boomer thường cảm thấy rằng người thuộc thế hệ millennials ái kỷ, nam và nữ đang trong quá trình hẹn hò tìm kiếm một mối quan hệ lãng mạn thường có xu hướng cảm thấy đối phương là người ái kỷ, những bệnh nhân không hợp tác hoặc không phản ứng với các kỹ thuật phân tâm học của Freud thường bị ông đánh giá là người ái kỷ. Cuộc khảo sát lịch sử của Dombek là một lời nhắc nhở thuyết phục rằng các đặc điểm của người ái kỷ (giới tính, tuổi tác, động cơ) đã và sẽ tiếp tục thay đổi “tuỳ thuộc vào việc ai là người đưa ra chẩn đoán.”
Trước đây Freud từng nói rằng phụ nữ thường yêu một cách ái kỷ, còn bây giờ thì chúng ta lại hay áp dụng quan điểm này đối với nam giới. Dombek lưu ý rằng: “Khi một cô gái có một anh bạn trai tồi, thì thứ mà cô có được là ưu thế về mặt đạo đức trong tôn giáo của sức khỏe tinh thần.” Để minh họa cho ý trên, Dombek giới thiệu một hiện tượng cụ thể trên Internet mà cô gọi là “narcisphere” (tạm dịch là “vòng tròn ái kỷ” hoặc “không gian ái kỷ”), là một tập hợp các blog và diễn đàn mà ở đó người ta, phần lớn là phụ nữ, củng cố cảm giác về khả năng đồng cảm vượt trội của mình và nâng cao nhận thức tập thể về việc sống sót trong chủ nghĩa ái kỷ và về chứng rối loạn căng thẳng hậu sang chấn (PTSD) do ái kỷ gây ra. Dombek viết: “Internet cảnh báo người ta rằng nếu bạn là một người đặc biệt biết cách cho đi thì bạn sẽ là mục tiêu hàng đầu của những kẻ ái kỷ. Narcisphere có một phiên bản khác giới tính, mà một số người gọi là manosphere (tạm dịch là “không gian đàn ông” hoặc “vòng tròn đàn ông”), chuyên dạy đàn ông cách giả vờ tự tin để thao túng và kiểm soát phụ nữ. Nó thuộc về nghệ thuật tán tỉnh. Và nó còn tệ hơn nhiều so với narcisphere.
Dombek hình dung ở góc nhìn của một người bạn trai bị bạn gái mình coi là kẻ ái kỷ, với những chi tiết gợi cảm. Người bạn gái này dành rất nhiều thời gian trên internet và đã bị thuyết phục rằng những khuyết điểm khá bình thường của bạn trai mình là triệu chứng của một rối loạn nghiêm trọng, cô nhìn anh ta, “môi run rẩy.” Anh ta hỏi cô có chuyện gì. Cô nở một cười giả tạo và nói là không có gì; narcisphere đã khuyên cô nên bảo vệ bản thân mình và rút lui. Và từ đó một cuộc chạy đua cảm xúc bắt đầu, bạn cho rằng người đó hoàn toàn không chân thành và trống rỗng bên trong, và cách duy nhất để bạn đối đãi với họ là kìm nén bản năng tử tế của chính mình – hay nói cách khác, bạn được thôi thúc để hành động như một kẻ ái kỷ. Dombek tưởng tượng người bạn trai có thể nghĩ gì: “Thật đáng sợ, những gì cô ấy nói có vẻ chả liên quan đến những gì đang thực sự diễn ra bên trong.”
Bản thân tôi cực kỳ sợ sự ái kỷ – không phải sự ái kỷ của người khác mà là của chính tôi. Thực sự thì tôi không nghĩ rằng mình quá ái kỷ. Nhưng có một thời gian tôi đã nuôi dưỡng một niềm hoài nghi rằng những điều mà tôi tin tưởng nhất về bản thân mình là hoàn toàn, tuyệt đối sai lầm.
Dombek đặt vấn đề một cách rất tao nhã nhưng mang hàm ý hết sức sâu sắc: Nếu bạn cực kỳ ghét một điều gì đó, chẳng phải bạn sẽ không thể nhận ra nó trong chính bản thân mình sao? Nỗi sợ hãi cái ác trong tôn giáo có thể tự nó dẫn đến cái ác – ví dụ, mong muốn bảo vệ những đứa trẻ chưa chào đời có thể khiến người ta coi thường mạng sống của người phụ nữ. Nỗi sợ rằng mình là người thiếu kiên định với các quan điểm về nữ quyền có thể khiến một người khiến mình trở nên thiếu kiên định với các quan điểm nữ quyền. Ám ảnh về bất kỳ con quỷ nào cũng đòi hỏi sự quen thuộc sâu sắc với nó, và ngày nay nỗi sợ hãi của tôi đối với sự ái kỷ bắt nguồn từ sự hiểu biết tường tận về những phương pháp không ngừng thay đổi và tiến hóa của thế giới internet mà một người có thể sử dụng để uốn nắn cuộc sống của mình, chỉnh sửa, chọn lọc, hoặc bóp méo hình ảnh về cuộc sống của mình một cách có chủ đích, nhằm để biến mình thành một tấm gương, một hình ảnh lý tưởng và nhận được sự tâng bốc trên mạng. Trong phần mở đầu của cuốn sách, trước khi bỏ đại từ ở ngôi thứ nhất, Dombek viết: “Nếu việc sử dụng từ ‘tôi’ hóa ra là một triệu chứng của ái kỷ, bạn sẽ không còn nghe thấy tin tức gì từ tôi nữa”.
Là một độc giả của cuốn sách, tôi phản đối quan điểm này: có một trách nhiệm rõ ràng khi sử dụng đại từ “tôi” một cách hiệu quả, một sự thừa nhận rằng trải nghiệm của con người thường quá cụ thể để sử dụng từ “chúng ta”. Nhưng với tư cách là một cây viết, tôi hiểu tại sao Dombek lại nói như vậy. Đây là nỗi sợ về việc khiến độc nghĩ rằng mình ái kỷ – nỗi sợ rằng chính mình là một kẻ ái kỷ, tận sâu bên trong – lại chính là nơi mà một dạng rối loạn đặc biệt khó nắm bắt có thể tồn tại. Tôi thấy khó chịu với ý nghĩ rằng mình là một kẻ ái kỷ, nhưng tôi thấy sự tự mãn của người khác chỉ đơn thuần là đáng xấu hổ. Nếu sự khó chịu đó bắt nguồn từ sự nghi ngờ dai dẳng rằng tôi không hiểu chính bản thân mình, thì đó chẳng phải là một bằng chứng rành rành của việc quan tâm đến bản thân quá mức sao?
Hai nhà tâm lý học đương đại, Jean Twenge và W. Keith Campbell, dựa trên các tiêu chí khảo sát có phần lỗi thời, đã tuyên bố rằng thế hệ Millennials là thế hệ có xu hướng ái kỷ và tự cho mình quyền được hưởng thụ. (Đây là thế hệ của tôi; Dombek tự xếp mình vào giữa thế hệ giữa Millennials và Gen X.) Cuốn “The Narcissism Epidemic” (tạm dịch là “Đại dịch ái kỷ”), của Twenge và Campbell xuất bản năm 2009, thường được trích dẫn như một bằng chứng cho thấy thế hệ thanh thiếu niên đang xấu đi. Tác giả cho rằng chứng rối loạn nhân cách ái kỷ “không còn khác biệt đáng kể so với kỳ vọng của văn hóa chúng ta.” Đây tất nhiên là lập luận mà Christopher Lasch đã đưa ra gần 40 năm trước, và cũng là điều mà nhiều người trong số chúng ta thường xuyên nhắc lại kể từ đó cho đến nay. Nhưng việc lập luận này đã xuất hiện từ những năm 1970 thì cũng không có nghĩa là chúng ta có thể phủ nhận nó, Dombek nhận xét: Nếu có một đại dịch ái kỷ thì nó phải bắt đầu ở một thời điểm nào đó chứ. Giống như một căn bệnh điển hình, lúc đầu nó lây lan một cách chậm rãi, và sau đó khi tìm thấy phương thức lây nhiễm mới – trong trường hợp này là internet và mạng xã hội – nó sẽ lan rộng một cách nhanh chóng hơn và đến tất cả mọi người.
Nếu “sự tự mãn độc hại” là một căn bệnh mới của nước Mỹ (và thế giới), thì điều quan trọng cần phải nhớ là không ai có miễn dịch (đối với nó) cả. Câu chuyện về người ái kỷ, một phần, là câu chuyện về những người xung quanh anh ta cầu xin sự đồng cảm, và khẳng định rằng mọi người nên quan tâm đến nhau hơn. Thế nhưng bằng cách nào đó, câu chuyện về thế giới này đã trở thành “một câu chuyện chia rẽ chúng ta, bằng cách định nghĩa sự đồng cảm là thứ mà chúng ta có và những người khác thiếu,” Dombek viết. Có lẽ khi công nhận ái kỷ là một chứng bệnh, chúng ta đã quên mất rằng việc liên tục chẩn đoán người khác lại có thể nguy hiểm đến mức nào. Cuối cùng, điều mà cuốn “Sự ích kỷ của người khác” trình bày rõ ràng nhất không phải là mối nguy hiểm của chủ nghĩa ái kỷ mà là mối nguy hiểm của bất kỳ thế giới quan cụ thể nào, mà để duy trì tính nhất quán của nó, đòi hỏi người giữ quan điểm đó phải tin rằng bản thân mình luôn đúng, luôn đạo đức, luôn tốt.



Bình luận về bài viết này