Tác giả: Nick Paumgarten
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch
Randall Poster và Josh Deutsch, đôi bạn thân thiết từ thời thơ ấu có chung niềm đam mê đối với âm nhạc ở Riverdale, làm nhiệm vụ giám tuyển âm thanh cho nhiều bộ phim, quảng cáo, podcast và các dịch vụ phát trực tuyến như “One Night in Miami” và “The Queen’s Gambit”.
Randall Poster và Josh Deutsch gặp nhau vào giữa những năm bảy mươi, khi họ đang học lớp bảy.
Poster kể: “Một cô gái tôi quen từ trại hè – có lẽ là cô bạn gái đầu tiên của tôi – đã giới thiệu chúng tôi. Chắc là ở một buổi lễ Bar Mitzvah (một nghi lễ quan trọng trong đạo Do Thái, đánh dấu sự chuyển đổi từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành của một cậu bé).”
“Không phải Bar Mitzvah của tôi,” Deutsch nói.
“Cũng không phải của tôi,” Poster nói.
“Mặc dù chúng tôi đều có mặt ở Bar Mitzvah của nhau.”
Lúc đó Deutsch sống ở New Jersey và đang theo học tại trường Riverdale Country School ở Bronx, còn Poster thì sống ở Riverdale và theo học tại trường Horace Mann, ngay kế bên. Cả hai đều rất yêu thích âm nhạc. Họ hay mua đĩa hát, cùng nhau nghe và nói chuyện rất nhiều về âm nhạc, cùng nhau nghiền ngẫm báo Village Voice – một tuần báo nổi tiếng của New York với các bài viết sâu sắc về âm nhạc và văn hoá, và khi lớn lên họ cùng nhau đến các đi concert và đi club. Poster nói: “Tôi nhớ rằng mình đã đến Studio 54 vào năm lớp 11, lúc đó tôi nghĩ “Mình muốn làm người lớn’.”
Đó là một ước muốn có thể thực hiện được. Sau khi tốt nghiệp đại học (trường Brown), cả hai đều tham gia vào ngành công nghiệp âm nhạc – Deutsch làm giám đốc A. & R. (Artists and Repertoire, chịu trách nhiệm tìm kiếm tài năng mới, phát triển sự nghiệp của nghệ sĩ, và giám sát quá trình thu âm) tại các hãng đĩa lớn và sáng lập công ty thu âm của riêng mình, còn Poster là Music supervisor (người chịu trách nhiệm lựa chọn và cấp phép âm nhạc cho các sản phẩm truyền hình và điện ảnh, đảm bảo âm nhạc phù hợp với tác phẩm) được săn đón trong lĩnh vực truyền hình và điện ảnh, người làm việc với Martin Scorsese, Wes Anderson, và Todd Haynes, cùng nhiều người khác.
Mùa thu năm ngoái, giữa những biến động trong mọi ngành nghề, họ quyết định hợp tác trở lại, sáp nhập các công ty của mình lại với nhau thành Premier Music Group, với mục đích đưa các bài hát vào các chiến dịch quảng cáo và podcast cũng như phim ảnh và chương trình truyền hình. Deutsch nói: “Tái kết nối với niềm đam mê cốt lõi của chúng tôi đối với âm nhạc trong suốt những năm qua, việc được sống lại với những cuộc thảo luận sâu sắc về âm nhạc, được dồn toàn bộ tâm huyết vào lĩnh vực mình yêu thích, chính là một phần thưởng quý giá, mang lại ý nghĩa và động lực trong một giai đoạn kỳ lạ và đầy thử thách này.”
Mấy phòng này trước đây từng là căn hộ pied-à-terre (căn hộ nhỏ hoặc một nơi ở thứ hai mà ai đó sở hữu hoặc thuê để sử dụng khi họ ở một thành phố khác hoặc đi công tác) của một cặp vợ chồng trong nhiều thập kỷ.
Văn phòng của Poster, có cửa sổ trời và gác xép, chất đầy những hộp đĩa hát. Chỗ này cũng được anh dùng làm studio của mình. Trên một cánh cửa ở hành lang, người ta treo một tấm biển có ghi “Pastel Society of America” (Hiệp hội Màu Pastel Hoa Kỳ).
“Chúng tôi là những người duy nhất ở đây,” Deutsch nói.
“Hiệp hội Màu Pastel rõ ràng là không hoạt động,” Poster nói.
Deutsch mặc đồ đen – áo len, quần dài, giày thể thao. Poster mặc quần nhung màu tím, áo len cổ chữ V màu xám và giày Stan Smiths. Họ không thực sự nói chuyện một cách hoàn toàn ăn ý mà đôi khi lại nói những câu khác nhau cùng lúc. Đó là một khoảng thời gian bận rộn kỳ lạ, với rất nhiều việc phải làm nhưng hầu như không thể tập trung lại để làm cùng nhau (vì covid). Poster là music supervisor cho nhiều bộ phim ăn khách phát trên các nền tảng trực tuyến trong thời kỳ đại dịch – “The Queen’s Gambit,” “Tiger King,” “Pretend It’s a City” – cũng như các bộ phim “One Night in Miami” và “Summer of Soul.”
Poster nói: “Chúng được công chúng đón nhận ở một mức độ nhất định, nhưng không có sự giao lưu tương tác trực tiếp với những người đã tạo ra nó, không có lễ kỷ niệm. Nó giống như một trải nghiệm bị triệt tiêu, bị lấy đi cái chất làm cho nó trở nên trọn vẹn và ý nghĩa.”
Deutsch nói: “Mảng kinh doanh liên quan đến quảng cáo tăng trưởng hơn 60%. Những người làm quảng cáo không thể quay/sản xuất các đoạn phim quảng cáo mới (do các lệnh phong tỏa, giãn cách xã hội, hạn chế đi lại và tụ tập trong đại dịch) nên muốn dùng âm thanh mới để làm mới thông điệp quảng cáo của mình. Với thông điệp “Tôi sẽ ở đây vì bạn”, chúng tôi đã phải chạy đua hết tốc lực trong giai đoạn đầu của covid. Các nghệ sĩ mất đi doanh thu từ các tour lưu diễn, concert… đã trở nên cởi mở hơn rất nhiều trong việc cấp quyền sử dụng các tác phẩm của họ – ngay cả với những người trước đây vốn hay từ chối một cách thẳng thừng.”
Poster bắt đầu làm nhạc cho quảng cáo truyền hình khoảng mười lăm năm trước. Lúc đó, các đạo diễn phim mà anh từng làm việc cùng bắt đầu làm nhiều quảng cáo hơn. Anh nói: “Tôi không biết gì về quảng cáo. Người duy nhất trong ngành quảng cáo mà tôi biết là Darrin Stephens trong phim Bewitched. Trong cấp phép âm nhạc, không có quy định cụ thể. Nó luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố con người. Có thể một ban nhạc không cấp phép một bài hát vì một người trong ban nhạc ghét người kia đến mức không muốn anh ta kiếm tiền.”
Mấy trường hợp như vậy cũng không phải là hiếm nhưng Poster không tiết lộ danh tính của họ. Anh nhấn mạnh rằng đối với việc lựa chọn một bài hát, quyết định cuối cùng là của đạo diễn. Anh nói: “Người ta thường hiểu lầm rằng tôi là người cuối cùng đưa ra quyết định trong việc chọn nhạc. Nhưng trên thực tế thì chúng tôi chỉ giúp khách hàng cân nhắc các lựa chọn. Những người tôi biết đều có lòng tin rằng họ lái xe giỏi và có gu âm nhạc tốt.”
Deutsch nói: “Nội bộ công ty có câu đùa rằng ai cũng là music supervisor cả.”
Poster nói: “Đôi khi một bộ phim hoặc một chương trình nào đó không hợp với bản nhạc mà đạo diễn muốn sử dụng. Có thể nó không đủ chiều sâu để đi cùng một giai điệu như vậy. Người ta muốn làm việc với tôi bởi tôi có khả năng chỉ ra cho họ những vấn đề như vậy.” Hồi còn làm cho series Vinyl của HBO, các nhà sản xuất muốn kết thúc một tập bằng bài hát kia. Poster không cho biết đó chính xác là bài hát nào, nhưng anh thấy việc sử dụng bài đó cho phim không hiệu quả, một phần vì anh ấy đã dùng nó cho một bộ phim khác và đạt hiệu quả rất tốt. Anh kể: “Tôi cứ trăn trở mãi về vấn đề này. Cuối cùng tôi quyết định đến gặp Martin Scorsese – Giám đốc Sản xuất của phim – và nói: ‘Nói thật là việc sử dụng bài hát này trong tập này khiến tôi mất ngủ.’ và Martin Scorsese nói: ‘Được rồi, chúng ta sẽ thay đổi nó.’”
Deutsch và Poster nhận định rằng việc cấp phép âm nhạc cho quảng cáo, phim ảnh và các loại hình media khác, theo nhiều cách, đã thay thế vai trò mà radio từng đảm nhận trước đây. Poster nói: “Nó giúp nghệ sĩ mới được biết đến hoặc mang lại sức sống mới cho những bản hit cũ.”
Deutsch nói: “Mỗi ngày có khoảng sáu mươi nghìn bản nhạc mới được tải lên Spotify. Nếu bạn là một nghệ sĩ mới, làm thế nào để bạn được biết đến?” Người ta nói “các cơ hội gắn liền với thương hiệu”, như trong phim “The Graduate” (1967), có một cảnh nổi tiếng khi nhân vật trẻ tuổi Benjamin Braddock được một người lớn khuyên “Plastics” (Nhựa) là tương lai, là ngành có tiềm năng. Cấp phép âm nhạc cũng là một cách thông minh để tăng cường nhận thức và giá trị bản quyền của các tác phẩm từ các nghệ sĩ gạo cội, nhiều trong số đó (Paul Simon, Bob Dylan, Neil Young, Stevie Nicks) gần đây được bán với mức giá rất cao, một phần nhờ vào sự phát triển của các dịch vụ phát trực tuyến.
Deutsch nói: “Bây giờ là thời điểm tốt nhất để sở hữu bản các bản master (bản ghi âm gốc của một bài hát). Tôi chưa bao giờ thấy tỷ lệ lợi nhuận cao như thế này. Nó đã trở thành một nguồn doanh thu đáng tin cậy, giống như một khoản niên kim (annuity – một khoản thanh toán cố định được nhận đều đặn trong một khoảng thời gian hoặc trọn đời). Đó là lý do tại sao bạn thấy dạo gần đây có rất nhiều tiền của các tổ chức đổ vào quyền âm nhạc.”
Poster nói thêm: “Giờ thì tôi cũng phải công nhận là anh ấy nói đúng.”



Bình luận về bài viết này