Tác giả: S. C. Cornell
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch.

Danh xưng “thiên tài” thường mang tính loại trừ, được áp dụng không nhất quán và cho phép người mang danh xưng có thể hành xử một cách xấu xí. Vậy thì tại sao chúng ta không thể từ bỏ khái niệm này?

Giả sử có một đại dịch khác xuất hiện. Lần này nó là một căn bệnh chết người lây lan qua việc tiếp xúc với phân của người khác. Việc làm sạch và khử trùng nhà vệ sinh đúng cách trở thành vấn đề sống còn. Sau đại dịch này, một bài kiểm tra năng khiếu – hãy gọi nó là T.I.Q. – được phát triển để đo lường khả năng xoay bàn chải ba chiều bên trong những cái lỗ. Những người đạt điểm cao sẽ được huấn luyện cho cuộc thi Olympic Dọn dẹp Nhà vệ sinh, nhằm giúp công dân luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu với bệnh tật và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, thế giới vinh danh một nhà vô địch cọ toilet – không có gì ngạc nhiên khi người này có chỉ số T.I.Q. vượt trội. Người này giỏi nhất trong một kỹ năng quan trọng cho sự sống còn của nhân loại. Vậy thì người đó có phải thiên tài không?

Câu hỏi này rất khó trả lời vì định nghĩa của chúng ta về thiên tài rất mâu thuẫn. Nhìn chung, chúng ta muốn các thiên tài là những người giỏi về trí óc hơn là tay chân, nhưng chúng ta có thể có ngoại lệ cho một bác sĩ phẫu thuật hoặc một đầu bếp. Chúng ta kỳ vọng họ khám phá ra các lĩnh vực kiến thức mới; hoặc, họ có thể rất giỏi một kỹ năng có thể tự động hóa như cờ vua. Tài năng của họ phải khó hiểu với số đông, trừ phi họ là chính trị gia. Chúng ta đã công nhận Bernini là thiên tài bởi sự tinh thông của ông về một loại vật liệu thường dùng cho phòng tắm như đá cẩm thạch và thậm chí công nhận Duchamp là thiên tài nhờ một phát minh có liên quan đến toilet. Vậy tại sao không công nhận nhà vô địch cọ rửa này? Sự khác biệt đơn giản chỉ vì lĩnh vực này gắn liền với phụ nữ thuộc tầng lớp lao động, bị phân biệt chủng tộc hay sao?

Trong luận văn “The Genius Myth: A Curious History of a Dangerous Idea”, Helen Lewis – một cây bút của tờ The Atlantic – lập luận rằng cái mà chúng ta gọi là thiên tài phụ thuộc vào các chuẩn mực của một thời kỳ nhất định, “vào những gì xã hội chúng ta coi trọng và những gì xã hội sẵn sàng chấp nhận.” Lewis không có lập trường cứng sắn chống lại sự tồn tại của thiên tài; cô cho rằng Shakespeare có thể là một trong số đó. Vấn đề của cô liên quan nhiều đến những đặc quyền mà xã hội trao cho thiên tài, dẫn đến việc người ta ngưỡng mộ những đặc điểm không mấy đáng ngưỡng mộ ở họ. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa lãng mạn thế ký 19 thich những thiên tài trẻ con, nghịch ngợm, bệnh tật đầy mình và hơn hết là chết vì tự tử. Họ tin rằng thiên tài là một phẩm chất bẩm sinh, giống như một đứa trẻ, và việc “dạy dỗ” hay đưa nó vào “khuôn phép” bằng giáo dục sẽ chỉ làm hỏng món quà trời ban đó.

Một nhà thống kê thời kỳ đầu tên là Francis Galton, anh em họ của Charles Darwin, đã đưa ra một lý thuyết về thiên tài mang tính đối lập (với quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn). Galton đã nghiên cứu một nhóm thẩm phán người Anh và thống kê các mối quan hệ của họ với những người “kiệt xuất,” ông cũng làm điều tương tự với các giáo sĩ và các giáo sư của các ngành kinh điển tại đại học Cambridge. Ông kết luận rằng thiên tài được di truyền trong gia đình, rằng có nhiều khả năng được tìm thấy ở người châu Âu hơn là ở “các chủng tộc thấp kém,” và, như Lewis nói, “mặc dù thiên tài cũng được truyền lại cho dòng mẹ, nhưng nó không xuất hiện ở phụ nữ.” (Galton công bố những kết luận này vào năm 1869, cùng năm mà một nhóm nhỏ phụ nữ Anh lần đầu tiên được phép tham gia kỳ thi tuyển sinh đại học.) Bất chấp sự ngớ ngẩn một cách rõ ràng trong phương pháp luận của mình, một phương pháp mà, bên cạnh các vấn đề khác, đã không thể tách biệt được lợi thế của chế độ gia đình trị khỏi lợi thế của tài năng, lý thuyết của Galton vẫn có những ảnh hưởng nhất định; tất cả các sinh viên hiện đại tham gia kỳ thi MCAT mà trong số đó hơn một nửa là nữ, vẫn phải học về công trình với phương pháp luận sai lầm và đầy định kiến của Galton.

Galton muốn định hình lại khái niệm thiên tài thành một biểu tượng của sự đáng kính và khỏe mạnh. Ông đặc biệt phản đối quan niệm của Chủ nghĩa Lãng mạn về cảm hứng, vốn “gần một cách nguy hiểm với những giọng nói mà người điên nghe thấy” – một vấn đề đặc biệt đối với ông vì theo ông thì chứng điên loạn cũng xuất hiện ở “các chủng tộc hạ đẳng.” Ngày nay, chúng ta đã đạt đến một sự thỏa hiệp về việc lý tưởng hóa sự điên rồ: tất cả mọi người đều có thể nghe thấy những giọng nói, nhưng nó chỉ được xem là dấu hiệu của thiên tài ở những người không có khả năng bị cảnh sát bắn trong một cơn loạn thần. Tiểu thuyết gia Ottessa Moshfegh tuyên bố mình viết lại lời của những người kể chuyện của cô nói cho cô: “Tôi chỉ viết lại những gì giọng nói đó muốn nói.” Nash, người sáng tạo ra lý thuyết trò chơi đoạt giải Nobel, đã bị buộc phải nhập viện vì bệnh tâm thần phân liệt, từng nói với một đồng nghiệp: “Những ý tưởng tôi có về các sinh vật siêu nhiên đến với tôi theo cùng một cách mà các ý tưởng toán học của tôi đã đến. Vì vậy, tôi đã xem xét chúng một cách nghiêm túc.”

Nếu bệnh tâm thần tương thích với huyền thoại thiên tài thời hiện đại, thì nó thường không tương thích với việc hoàn thành tốt công việc. Nash đã viết một bài tiểu luận nhân dịp ông nhận giải Nobel, nói rằng việc quay lại với vẻ bề ngoài đầy lý trí của mình “không hoàn toàn là chuyện vui.” Tuy vậy, ông cũng thừa nhận rằng quãng thời gian 25 năm mà ông đắm chìm trong “thế giới hoang tưởng” nửa tỉnh nửa mê của mình là một “khoảng trống” không mang lại năng suất khoa học. Nghệ sĩ Karen Green, người đã kết hôn với David Foster Wallace khi ông tự tử và qua đời, đã lên tiếng phản đối ý kiến cho rằng chứng trầm cảm của Wallace có ích cho nghệ thuật của ông. Bà nói với một phóng viên: “Người ta không biết được bệnh tình của ông ấy đã nghiêm trọng tới mực nào. Căn bệnh đó cứ như một con quái vật đã nuốt chửng ông ấy. Và lúc đó, mọi thứ khác chỉ còn là thứ yếu so với căn bệnh. Không chỉ là chuyện viết lách mà là mọi thứ khác: thức ăn, tình yêu và nơi an trú.” Có lẽ, giống như những người theo chủ nghĩa lãng mạn, chúng ta muốn các thiên tài tự kết liễu đời mình. (Như trong Câu lạc bộ 27.) Nếu chúng ta ngưỡng mộ họ, chúng ta có thể coi đó là hành động tự chủ cuối cùng. Nếu chúng ta không ưa họ, chúng ta trấn an bản thân và người khác rằng những ai bay quá gần mặt trời sẽ bị thiêu đốt như trong huyền thoại Icarus.

Lewis gọi đây là “mô hình thiên tài khiếm khuyết,” một mong muốn có thể là vô thức rằng “món quà quý giá” phải trả một “cái giá nhân văn” – tức là trời không cho ai tất cả. Những cuốn sách được xuất bản gần đây, có thể kể đến cuốn “When We Cease to Understand the World” của Benjamin Labatut – mô tả hình ảnh các nhà vật lý đầy nhiệt huyết – và cuốn “Going Infinite của Michael Lewis kể câu chuyện thú vị về kẻ lừa đảo công nghệ Sam Bankman-Fried, tiếp tục mạ vàng cho hình ảnh những nam thần đồng da trắng đầy khiếm khuyết – trẻ tuổi, kiêu ngạo, cô đơn, bất cẩn, nhạy cảm, bị hiểu làm và tàn nhẫn – dù có thêr tha thứ được. Chúng ta coi những khiếm khuyết này là sản phẩm của quá trình chuyên môn hoá cao độ. John Watson từng phải giải thích với Sherlock Holmes rằng trái đất quay xung quanh mặt trời, một sự thật mà sau đó Holmes khẳng định rằng anh sẽ quên, để không làm đầu óc mình rối bời với những chuyện vụn vặt vô ích. Bankman-Fried nổi tiếng với ý kiến cho rằng tất cả các cuốn sách nên được thay bằng những bài blog dài sáu đoạn.

Bởi vì các thiên tài thường có xu hướng không chuyên tâm vào những thứ như dọn dẹp, cái giá phải trả cho thiên tài đó thường được  người bạn đời kiêm thư ký của họ – những nhân vật người vợ hiền lành như Véra Nabokov, Sophia Tolstoy, and Alice B. Toklas, hay thỉnh thoảng là những người chồng như Leonard Woolf – trả thay cho, chịu đựng cho. Albert Einstein từng nói với người tình của mình rằng ông đối xử với vợ mình – bà Mileva Marić – “như một nhân viên mà mình không thể sa thải”. Vài năm trước khi công bố thuyết tương đối rộng, ông đã viết một lá thư cho Marić:

Em hãy đảm bảo là:

quần áo của tôi được giặt sạch và cất gọn;
tôi sẽ được phục vụ ba bữa cơm đều đặn trong phòng…
em sẽ không mong đợi bất kỳ sự thân mật nào từ tôi, em cũng sẽ không trách móc tôi dưới bất kỳ hình thức nào;
em sẽ ngừng nói chuyện với tôi nếu tôi yêu cầu như vậy.

Năm 1996, bức thư này nằm trong một tập tài liệu được bán tại một buổi đấu giá của Christie’s với giá gần 900 ngàn đô la. Nhu cầu đối với những vật phẩm phù du của thiên tại có thể được xem như một bản cập nhật của hiện tượng những đám đông thời trung cổ đổ xô đến các nhà thờ tuyên bố sở hữu bao quy đầu của Chúa Kitô. Trong cả hai trường hợp, người ta đều theo đuổi việc thỏa mãn khao khát của con người về những dấu hiệu của tính người trong một sinh vật được cho là thần thánh. Nếu như từ lâu chúng ta đã cho phép những vị thần bất tử mang hình dáng con người được làm những điều xấu – chẳng hạn như Zeus, ông này kiểu như Harvey Weinstein của đỉnh Olympus vậy – thì Lewis cho rằng chúng ta đã sai lầm khi cho phép những con người dường như giống thần có được những đặc quyền tương tự như vậy. Cô viết rằng, mục tiêu cuốn sách của cô là “phá bỏ” ý tưởng cho rằng một số người là thành viên của một “tầng lớp đặc biệt và thượng đẳng.”

Lịch sử của “các nghiên cứu khoa học về thiên tài,” nhìn rộng ra, là lịch sử của khoa học chủng tộc. Galton cùng một số người khác đã khai sinh khái niệm về “thuyết ưu sinh” – ông chính là người tiên phong trong cả hai lĩnh vực: nghiên cứu khoa học về thiên tài và khoa học chủng tộc. Và những người săn lùng thiên tài kể từ đó đã cố gắng phân loại các nhóm chủng tộc theo trí thông minh. Nhà tâm lý học Lewis Terman, người đã phổ biến các bài kiểm tra IQ ở Hoa Kỳ, khẳng định rằng những người có “trí thông minh dưới mức trung bình” được tìm thấy “với tần suất đặc biệt cao ở người da đỏ, người Mexico và người da đen.” Công trình tinh hoa của ông, Nghiên cứu Di truyền về Thiên tài, nhằm tìm cách xác định các thiên tài tương lai bằng cách kiểm tra chỉ số IQ của trẻ em California, đã không khảo sát đủ số lượng trẻ em từ các cộng đồng thiểu số (người da đỏ, người Mexico và người da đen), theo một nhà phê bình thì nghiên cứu đó đã bỏ qua khoảng hai mươi bốn đến bốn mươi phần trăm số trẻ em có thể đủ điều kiện.

Trong số những đứa trẻ mà Terman đã kiểm tra nhưng được xác định là có chỉ số IQ không đủ cao có hai cậu bé sau này đã giành giải Nobel Vật lý. Trong “The Genius Myth,” Lewis dành hẳn một chương cho một trong số họ, William Shockley, người được biết đến với công trình về transistor, một chất bán dẫn được sử dụng trong hầu hết các thiết bị điện tử hiện đại. Shockley là một kẻ tự cao tự đại và là một gã tồi; ông ta từng hỏi một vị khách đến nhà rằng: “Anh đã khám phá ra định luật tự nhiên nào rồi?” Đến tuổi trung niên, ông ta trở nên khó ưa đến nỗi không ai muốn làm việc cùng. Khi ông ta thành lập công ty riêng, một nhóm nhân viên của ông ta đã nổi loạn – một vài người trong số đó sau này đã thành lập Intel – và Shockley đã chuyển hướng sang những hoạt động ít mang tính khoa học hơn. Ông ta tuyên bố rằng giữa tỷ lệ “tổ tiên da trắng” của một người và chỉ số IQ của họ có mối quan hệ trực tiếp. Ông ta ủng hộ việc triệt sản những người có chỉ số IQ thấp. Ông ta đã hiến tặng cho một ngân hàng tinh trùng dành cho những người đoạt giải Nobel và các nhân vật lỗi lạc khác, ngay cả khi ông ta công khai phàn nàn rằng con cái của mình đã không đáp ứng được tiêu chuẩn trí tuệ của ông. (Ông ta nói rằng đó là do mẹ của chúng không đủ thông minh.) Khi ông qua đời vào năm 1989, Shockley bị hầu hết mọi người xem là một kẻ lập dị, một hiện tượng khá phổ biến trong số những người đoạt giải Nobel cùng thời đến nỗi nó đã được đặt cho một cái tên: bệnh Nobel (Nobelitis).

Lewis, trong phần thảo luận của mình về chủng tộc và IQ, thừa nhận rằng những khác biệt sinh học có thể đo lường được giữa các nhóm không nhất thiết tồn tại vĩnh viễn. Cô chỉ ra rằng điểm IQ trung bình ở Mỹ đã tăng khoảng ba điểm mỗi thập kỷ kể từ năm 1930. (Người làm bài kiểm tra trung bình vào năm 1930 bây giờ sẽ được phân loại là “khiếm khuyết trí tuệ cận biên.”) Nhưng cô không không đào sâu vào tính nhất thời của các định nghĩa xã hội về chủng tộc, hay sự thiếu chính xác của việc sử dụng chủng tộc như một thước đo cho sự tương đồng về mặt di truyền. (Ví dụ, một hậu duệ của những người trên tàu Mayflower như Shockley, rất có thể có quan hệ họ hàng gần gũi với một người Mỹ da đen hơn là người Mỹ da đen đó với, chẳng hạn, một người Zimbabwe.) Cô dường như ít bị sốc bởi thứ khoa học tồi tệ của Shockley – cô tuyên bố rằng nhiều nhà di truyền học coi “những câu hỏi” của ông là “khiêu khích” nhưng “chính đáng” – hơn là bởi xu hướng tự hủy hoại đã khiến ông nói ra những điều “khó chịu” và “gây kích động” như vậy.

So với đó, Lewis đã mạnh mẽ hơn trong việc chỉ trích chủ nghĩa phân biệt giới tính vốn từ lâu đã chi phối các quan niệm về trí thông minh. Trong “Genius Myth,” cô thản nhiên chế giễu Elon Musk vì đã retweet tuyên bố rằng “chỉ những gã đàn ông alpha có T (testosterone) cao,” những người có khả năng tự vệ, mới có thể đưa ra những quyết định “khách quan” và không sợ hãi cho phép họ tham gia vào một nền dân chủ. Nhưng Lewis, người có lẽ được biết đến nhiều nhất vì vai trò của mình trong việc đưa chủ nghĩa nữ quyền loại trừ người chuyển giới kiểu Anh đến Hoa Kỳ, bản thân bà cũng không ngần ngại sử dụng một chút thuyết bản chất luận về T cao. Trong một bài báo gần đây hoan nghênh phán quyết của tòa án Anh cho phép loại trừ các cô gái và phụ nữ chuyển giới khỏi các môn thể thao, phòng tắm và nhà tạm trú dành cho phụ nữ, cô cho rằng phụ nữ chuyển giới dường như vẫn giữ lại các khuôn mẫu “tội phạm” của “nam giới sinh học.” (Dù cô thừa nhận rằng bằng chứng có thể chứng minh cho điều này là “hạn chế.”) Vấn đề đối với một nhà nữ quyền tự xưng như Lewis là cô không thể có được cả hai. Hoặc là chúng ta đưa ra các lựa chọn về sự tham gia xã hội và chính trị dựa trên giả định rằng năng lực hành vi của nữ và nam là khác biệt mang tính vĩnh viễn và có hệ quả, hoặc là không. Bất kỳ ai có thể viết một cuốn sách như “The Genius Myth” hẳn phải biết rõ hơn về việc cách tiếp cận nào mang đến kết quả tốt hơn cho phụ nữ trong lịch sử.

Nếu Lewis không hoàn toàn nỗ lực để bác bỏ tư tưởng rằng thiên tài gắn liền với một tầng lớp xã hội ưu việt về mặt di truyền, thì cô lại siêng năng hơn trong việc bác bỏ ý tưởng rằng thiên tài sống bên ngoài xã hội. Cô tóm tắt một bài nghiên cứu từ năm 1922 chỉ ra rằng nhiều khám phá và phát minh – bao gồm cả đạo hàm, điện thoại, máy đánh chữ, và sự tồn tại của sao Hải Vương – đã được thực hiện cùng lúc bởi các nhà nghiên cứu làm việc độc lập. Cô viết: điều này cho thấy, tiến bộ khoa học ít phụ thuộc vào một trí tuệ độc nhất vô nhị mà phụ thuộc nhiều hơn vào các điều kiện xã hội chín muồi được xây dựng bởi những đột phá trước đó. Cô trích dẫn khái niệm “scenius,” một “không gian giả kim của thành tựu tập thể” trong đó sự tập trung của các tài năng liên quan sẽ kích thích những tiến bộ nhanh chóng. Ví dụ, Shockley đã làm việc tại Bell Labs, một trung tâm đã phát minh ra pin mặt trời hiện đại và hệ điều hành di động đầu tiên giữa thế kỷ 20. Chín người đã giành giải Nobel cho công việc họ đã làm ở đó, mặc dù con số này chưa tính hết số người tham gia vào những nỗ lực này – như Lewis chỉ ra, giải thưởng cho một khám phá nhất định chỉ có thể được trao cho ba người.

Lewis liên hệ sự tôn sùng thiên tài cá nhân của chúng ta với sự phổ biến của lý thuyết Người Vĩ Đại trong lịch sử. Cô viết: “Chúng ta thấy mình có thể dễ dàng hiểu được những câu chuyện mang tầm vóc con người, chuyện ai đó làm một điều gì đó, trong khi những thay đổi xã hội mang tính mơ hồ do nhiều yếu tố thúc đẩy có thể khiến giới học thuật phấn khích lại có xu hướng khiến người bình thường thấy chán ngán.” Nhận thấy việc sử dụng “những câu chuyện đạo đức” cá nhân là một công cụ mạnh mẽ trong việc tạo nên huyền thoại về thiên tài, cô vẫn chọn phương thức tương tự cho cuốn sách của mình, với những chương tiểu sử dài dòng, đầy tâm sự về những nhân vật tiêu biểu, từ Shakespeare đến Musk.

Lợi điểm của những nghiên cứu tình huống này là chúng khiến ta gần như không thể phớt lờ cách mà một số mô-típ lặp lại của thiên tài đã tái diễn qua nhiều thế kỷ. Ví dụ, Musk là hiện thân của cả hai luồng tư tưởng trái ngược nhau về thiên tài: lý thuyết Lãng mạn về một thiên tài có tầm nhìn, lập dị, tự hủy và cả lý thuyết của Galton về sự xuất sắc có thể định lượng: ông ta là người giàu nhất thế giới, vậy nên ông ta cũng phải là người thông minh nhất. Đôi khi bạn có thể thấy ở ông ta sự pha trộn cùng lúc giữa hình tượng thần đồng và đại trí giả ngu (kiểu như nhân vật Tế Công). Khi mối quan hệ giữa Donald Trump và Musk ở giai đoạn tốt đẹp nhất, Tổng thống đã mô tả cố vấn của mình là “một người có chỉ số IQ rất cao nhưng cũng có những khuyết điểm của mình.”

Nhược điểm là Lewis đã trở thành nạn nhân của một loại phản-tiểu sử thánh nhân – một lý thuyết Kẻ phiền toái trong lịch sử – cô bị ám ảnh bởi các khiếm khuyết cá nhân của những người được cho là thiên tài thay vì tập trung vào các xu hướng lớn hơn do hệ tư tưởng về thiên tài gây ra. Trên bảy trang khác nhau, cô chỉ trích Musk về tần suất đăng bài trên mạng xã hội của ông, cho rằng ông ta là một “người yêu thích những trò đùa nhạt nhẽo và bị rối loạn cảm xúc,” tự cao tự đại, hay phát ngôn nhảm nhí và chia sẻ những meme ấu trĩ. Người ta ước gì cô có thể nói về những điều này ít hơn một chút và nói nhiều hơn một chút về vai trò của Thung lũng Silicon trong việc hồi sinh các lý thuyết về chủng tộc và IQ, và điều này đã đầu độc nền chính trị của chúng ta như thế nào.

Nếu thế giới thực sự có thể bị chia cắt, về mặt sinh học, thành những người được định sẵn cho những điều vĩ đại và những người phải chịu kiếp lao động chân tay, thì chẳng có lý do gì để không giải tán Bộ Giáo dục, như Trump đã làm, và phân phối lại số ngân sách tiết kiệm được cho các dự án của các tỷ phú đã đưa ông ta lên nắm quyền. Chẳng có gì đáng phản đối về việc năm mươi người giàu nhất thế giới có tổng tài sản bằng bốn tỷ người nghèo nhất. Bất kỳ nỗ lực nào để thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm này – phổ cập giáo dục, nhập cư, thuế thu nhập, viện trợ nước ngoài – thì, mấy thứ đó chỉ là D.E.I. thôi mà.

(D.E.I. – Diversity, Equity, and Inclusion – Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập)

Về cơ bản, Lewis không cố gắng bác bỏ khái niệm về thiên tài mà chỉ hướng đến việc thu hẹp định nghĩa của nó. Cô gợi ý rằng, bởi vì thiên tài của một người thường chỉ giới hạn trong một lĩnh vực cụ thể, chứ không phải là một trí thông minh toàn diện có thể áp dụng cho mọi thứ, chúng ta nên ngừng coi đặc điểm này là một “kỹ năng có thể chuyển giao.” Cô yêu cầu chúng ta không gọi một người như Musk là thiên tài mà chỉ đơn thuần là một người đã thực hiện “những hành động thiên tài.” (Cô ví dụ rằng ông ta đã “làm cho việc sở hữu một chiếc xe điện trở nên ngầu thay vì là một hành động sám hối.”) Cả hai gợi ý này đều không giải quyết được gốc rễ của vấn đề về một “tầng lớp người đặc biệt hoặc vượt trội.” Các huyền thoại về thiên tài nhiệt tình đồng ý rằng các thiên tài giỏi ở một số việc và dở ở những việc khác. Và việc thay đổi cách nói không thể xóa bỏ được sự thật rằng có một cá nhân đặc biệt đứng sau một hành động thiên tài nào đó. Xe điện không thể tự làm cho mình trở nên ngầu được.

Một giải pháp tốt hơn để chống lại ý tưởng về những con người đặc biệt có thể chỉ đơn giản là từ bỏ hoàn toàn ý tưởng về thiên tài và giả định cơ bản của nó rằng, tại một thời điểm nhất định, một tài năng khác thường sẽ biến đổi thành một thứ gì đó huyền bí hơn. Ví dụ, điều làm nên sự khác biệt giữa những bước chạy nước rút một trăm mét của Noah Lyles và Kishane Thompson trong trận chung kết Olympic năm ngoái không phải là 0,005 giây mà Lyles đã vượt qua Thompson – một khoảng cách mà vào một ngày khác có thể đã khác đi – mà là danh hiệu “người đàn ông nhanh nhất thế giới.” Lewis thừa nhận rằng thiên tài có thể là một “phạm trù nhân tạo, tùy tiện.” Cô tin rằng chúng ta cần loại tư duy kỳ diệu này, rằng “chúng ta sẽ luôn khao khát cái siêu việt, cái phi thường, những chiếc lông của phượng hoàng.” Tuy nhiên, để tận hưởng sự vĩ đại của một người, bạn không nhất thiết phải coi họ là một đấng siêu phàm độc nhất. Những người đọc nhiều có thể xem các nhà văn yêu thích của họ không phải là những con phượng hoàng độc nhất, mà có khả năng nhìn nhận và tận hưởng giá trị riêng của rất nhiều nhà văn khác nhau, mỗi người đều thú vị và sâu sắc theo cách riêng của họ. Một khi bạn bắt đầu suy nghĩ như thế này, bạn sẽ ít quan tâm hơn đến cái mà Zadie Smith gọi là “những giải thưởng từ Thụy Điển.” Bạn có thể chỉ đơn giản là tận hưởng trí tuệ của một người khi đọc những thứ mà họ viết.

Bình luận về bài viết này

Quote of the week

What should young people do with their lives today? Many things, obviously. But the most daring thing is to create stable communities in which the terrible disease of loneliness can be cured.

~ Kurt Vonnegut

Nếu thấy các bài viết hay và hữu ích, hãy mua cho Thuỳ một ly Marou