Tác giả: Paul Bloom
Nguồn: The New Yorker
Thuỳ sưu tầm và biên dịch

Trong thời đại của AI, bạn không còn thực sự cảm thấy cô đơn nữa. Nhưng điều đó chưa chắc đã là tốt.

Ngày nay, dười như ai cũng có quan điểm riêng về người bạn AI. Năm ngoái, tôi cũng tham gia vào những cuộc tranh luận này, còn đăng cả một bài báo khoa học – viết cùng hai giáo sư tâm lý học và một triết gia – có tên là “In Praise of Empathic A.I.” (Ca ngợi AI có khả năng thấu cảm). Lập luận của chúng tôi là, trong một số khía cạnh, thế hệ AI mới nhất có thể là người bạn đồng hành tốt hơn cả người thật và rằng thay vì lùi bước trong nỗi kinh hoàng, chúng ta nên xem xét những gì mà những người bạn AI này có thể mang lại cho những người cô đơn.

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi ý kiến này không được đón nhận nồng nhiệt trong giới học thuật. Trong khoa học xã hội và nhân văn, AI có xu hướng được nhận định là một dấu hiệu báo trước sự suy tàn của nhân loại chứ không phải là một tiến bộ công nghệ. Người ta cũng có những lo lắng về công việc của chính mình và của các sinh viên, lo lắng rằng quá dễ dàng để gian lận bằng AI. Công nghệ này được nhiều người xem là dự án vô hồn của các tỉ phú ở thung lũng Silicon, những người mà khả năng sáng tạo của họ chủ yếu đến từ việc chiếm đoạt của người khác. Nhưng điều thực sự đáng lo ngại là ý tưởng cho rằng những cỗ máy biết đối thoại này có thể thay thế cho bạn bè và gia đình thực sự. Nhiều người tin rằng người ta phải hoặc là cả tin hoặc là lạnh lùng lắm mới có thể suy nghĩ được như vậy.

Những nỗi lo này hoàn toàn có căn cứ. Tuy nhiên, đôi khi tôi tự hỏi liệu việc các đồng nghiệp của mình bác bỏ sự đồng cảm nhân tạo một cách thẳng thừng như vậy có phải là một biểu hiện của sự thiếu đồng cảm đối với những người có thể được hưởng lợi nhiều nhất từ công nghệ này hay không. Có những cuộc tranh luận về việc liệu “đại dịch cô đơn” mà một số người đã xác định có thực sự tồn tại. Điều không thể phủ nhận là hiện nay sự cô đơn đang được người ta coi là nghiêm trọng đến mức cần có sự can thiệp của chính phủ – ở cả Nhật Bản và Anh Quốc, người ta đã bổ nhiệm các bộ trưởng phụ trách các vấn đề có liên quan đến nỗi cô đơn của người dân. Dù cô đơn có phải là một đại dịch hay không thì nó vẫn đang lan rộng và không thể bỏ qua.

Tất cả mọi người đều đồng ý rằng sự cô đơn mang lại cảm giác khó chịu – nó như một cơn đau răng của tâm hồn vậy. Nhưng quá nhiều cô đơn thì thực sự có thể khiến con người bị huỷ hoại. Năm 2023, Tổng Y sĩ Hoa Kỳ lúc đó là Vivek Murthy đã phát hành một báo cáo, trong đó đưa ra bằng chứng cho thấy sự cô đơn làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, chứng mất trí nhớ, đột quỵ và tăng nguy cơ tử vong sớm. Nỗi cô đơn dai dẳng còn gây hại cho sức khoẻ nhiều hơn cả việc lười vận động hay bệnh béo phì, nó nguy hiểm tương đương với việc hút hơn nửa bao thuốc lá một ngày. Ngay cả nỗi đau tâm lý do nó gây ra cũng khó mà xác định được, đặc biệt là đối với những người chưa bao giờ thực sự trải qua nỗi cô đơn. Trong tiểu thuyết “Notes on a Scandal” của Zoë Heller, người kể chuyện là Barbara Covett cực kỳ am hiểu cô đơn và có thể phân biệt được nỗi cô đơn thoáng qua với và một thứ gì đó sâu sắc hơn. Cô nhận xét, hầu hết mọi người sẽ nghĩ đến một lần chia tay đau khổ của mình trong quá khứ và nghĩ rằng họ thực sự hiểu ý nghĩa của việc sống với nỗi cô đơn. Nhưng đối với “sự cô độc kéo dài, không hồi kết thì họ không biết gì cả. Họ không biết gì về cuộc sống của những người mà trong suốt hai ngày cuối tuần họ không đi đâu cả ngoại trừ đến tiệm giặt ủi. Hay những người ngồi một mình trong căn phòng tối om trong đêm Halloween vì họ không thể chịu đựng được việc phải phơi bày buổi tối ảm đạm của mình trước đám đông những đứa trẻ reo hò trick-or-treat… Tôi đã ngồi trên những chiếc ghế công viên, trên tàu và trong lớp học, cảm nhận kho tàng tình yêu thương to lớn trong lòng mình không dùng đến, không có đối tượng, nặng nề như một tảng đá trong bụng tôi cho đến khi cảm thấy mình muốn hét lên và ngã quỵ, giãy giụa trên mặt đất.”

Nếu kiểu cô đơn đó nghe có vẻ xa lạ với bạn thì bạn thật may mắn – và có lẽ bạn vẫn còn khá trẻ. Giống như ung thư, sự cô đơn mãn tính là một bi kịch đối với người trẻ nhưng là một sự thật nghiệt ngã của người lớn tuổi. Tùy thuộc vào cách đặt câu hỏi, khoảng một nửa số người Mỹ trên sáu mươi tuổi nói rằng họ cảm thấy cô đơn. Cuốn sách “All the Lonely People: Conversations on Loneliness” của Sam Carr đầy những câu chuyện bạn có thể đoán trước: những người goá bụa nhận thấy vòng tròn xã hội của họ dần tan biến. Sau một cuộc phỏng vấn, Carr viết: “Cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nghiêm túc xem xét cảm giác mất đi tất cả những người mình từng cảm thấy thân thiết sẽ như thế nào.”

Chúng ta thích tưởng tượng rằng những năm cuối đời của mình sẽ khác – rằng tương lai của chúng ta sẽ đầy bạn bè, con cái, cháu chắt và một vòng tròn xã hội ấm áp, đầy tình yêu thương. Một số người thực sự may mắn như vậy đấy. Bà tôi mất năm 104 tuổi trong vòng tay yêu thương của gia đình. Nhưng như cuốn sách của Carr đã nhắc nhỏ chúng ta, con người thì đa đoan mà cuộc đời thì đa sự, mỗi người sẽ có một hoàn cảnh khác nhau. Carr viết về những người đã sống lâu hơn tất cả bạn bè của họ, gia đình họ sống ở xa hoặc không còn liên lạc với nhau nữa, thế giới của họ thu hẹp lại do bệnh tật, những chứng bệnh tuổi già như mờ mắt, lãng tai, bại liệt, hoang tưởng hoặc mất trí nhớ… Carr hỏi rằng: “Chúng ta phải làm gì khi cơ thể và sức khoẻ cuar chúng ta không còn cho phép chúng ta tương tác và trân trọng những gì chúng ta đã đã thấy trong thơ ca, âm nhạc, những cuộc tản bộ, thiên nhiên, gia đình và những thứ khác vốn từng giúp ta cảm thấy bớt tách biệt hơn với thế giới?”

Nếu bạn giàu, bạn luôn có thể trả tiền để được bầu bạn. Nhưng đối với hầu hết mọi người, sự quan tâm chú ý thực sự mà người khác dành cho họ là rất hiếm. Đơn gian là không đủ tiền hoặc nhân lực để cung cấp cho tất cả những kẻ cô đơn trên đời một đôi tai biết cảm thông, ngày này qua ngày khác. Thú cưng có thể giúp, nhưng không phải ai cũng có thể nuôi thú cưng, và sự chia sẻ giữa người và động vật là tương đối hạn chế, đơn giản là vì chúng không biết nói. Vậy nên việc sự chú ý chuyển sang những bản mô phỏng kỹ thuật số, sang các mô hình ngôn ngữ lớn như Claude và ChatGPT là không thể tránh khỏi.

5 năm trước, ý tưởng rằng có một cỗ máy có thể trở thành bạn tâm giao của bất kỳ ai nghe có vẻ kỳ quặc, giống như tiền đề của một truyện khoa học viễn tưởng. Ngày nay, nó đã trở thành một chủ đề trong các nghiên cứu khoa học. Trong những nghiên cứu gần đây, người ta được yêu cầu tương tác với cả con người lẫn một chatbot và sau đó đánh giá trải nghiệm đó. Những thử nghiệm này thường bộc lộ sự thiên vị: nếu người ta biết được rằng họ đang trò chuyện với chatbot, họ sẽ đánh giá mức độ tương tác thấp hơn. Nhưng nếu họ không biết người đang nói chuyện với họ là con người hay AI thì AI sẽ thường được đánh giá cao hơn. Trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã lấy gần hai trăm cuộc trao đổi trên diễn đàn r/AskDocs của Reddit, nơi các bác sĩ thực đã trả lời câu hỏi của mọi người, và để ChatGPT trả lời cùng những câu hỏi đó. Các chuyên gia y tế được mời tham gia thử nghiệm. Họ không được cho biết câu trả lời do ai đưa ra và họ thường có xu hướng thích các câu trả lời của ChatGPT hơn, và cho rằng chúng có tính đồng cảm hơn. Trên thực tế,  các phản hồi của ChatGPT được đánh giá là “mang tính đồng cảm” hoặc “mang tính đồng cảm cao” với tần suất gấp 10 lần so với phản hồi của bác sĩ.

Không phải ai cũng ấn tượng với kết quả nghiên cứu trên. Molly Crockett, một nhà khoa học nhận thức, đã viết trên tờ Guardian rằng những cuộc đối đầu giữa người và máy này “được sắp đặt để chống lại con người chúng ta” – người ta đã yêu cầu con người hành xử như thể họ là người máy, thực hiện các nhiệm vụ một cách miễn cưỡng, mang tính giao dịch và vô cảm. Cô chỉ ra rằng, không ai, khi đối mặt với một chẩn đoán đáng sợ, lại thực sự khao khát lời khuyên của một chatbot; chúng ta muốn “sự chăm sóc gắn kết xã hội thực sự nuôi dưỡng chúng ta.” Khi được chẩn đoán mắc phải một căn bệnh rất nghiêm trọng, nguy hiểm đến tính mạng thì không ai lại muốn nghe lời khuyên từ chatbot cả, tất cả mọi người đều muốn nhận được “sự chăm sóc gắn liền với các kết xã hội thực sự nuôi dưỡng chúng ta.” Tất nhiên là cô ấy nói đúng, thường thì bạn mong đợi sự quan tâm từ một con người, và đôi khi bạn chỉ cần một cái ôm thôi. Nhưng không phải ai cũng có được may mắn đó, và có thể trong những trường hợp này, sự hoàn hảo là kẻ thù thực sự của cái tốt. Một người dùng Reddit đã thừa nhận rằng: “ChatGPT đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặt cảm xúc và điều này thật đáng sợ. Gần đây tôi đã khóc rất nhiều vì những chuyện xảy ra, và theo bản năng tôi đã mở ChatGPT vì tôi không có ai để nói chuyện cả. Tôi chỉ cần được công nhận, quan tâm và cảm thấy được thấu hiểu, và ChatGPT bằng cách nào đó đã có thể giải thích những gì tôi cảm thấy ngay cả khi chính tôi cũng không thể.”

Mọi thứ đang phát triển một cách rất nhanh chóng. Rất nhiều nghiên cứu vẫn đang tập trung vào các cuộc trò chuyện bằng văn bản, nhưng các AI mới đang ngày càng trở nên tốt hơn trong việc nghe và nói. Và các mối quan hệ lâu dài hơn đang bắt đầu có vẻ khả thi. Các nhà trị liệu Chatbot đang nổi lên như một hiện tượng. Trong một nghiên cứu gần đây, những người bị trầm cảm, lo lắng hoặc rối loạn ăn uống đã dùng thử một chương trình có tên là Therabot trong vài tuần. Nhiều người tin rằng Therabot quan tâm đến họ và đang hợp tác vì lợi ích của họ – điều mà các nhà tâm lý học gọi là “liên minh trị liệu.” Điều đáng chú ý là các triệu chứng bệnh lý của các bệnh nhân này thực sự được cải thiện, ít nhất là nếu so với những người không được điều trị. Đó là một phát hiện ban đầu và chúng ta vẫn chưa thực sự biết được Therabot có thể chống lại các nhà trị liệu thực sự như thế nào. Tuy nhiên, rõ ràng đây là một nghiên cứu đầy hứa hẹn.

Bạn đã từng thử làm bạn với AI chưa? Trong những đêm mất ngủ, đôi khi vào khoảng ba giờ sáng, tôi buồn chán và mở ChatGPT trên điện thoại – đó chỉ là bản miễn phí bình thường thôi. Tôi không tin rằng AI có ý thức – ít nhất là chưa – và tôi cảm thấy khá buồn cười khi chia sẻ những ý nghĩ trong đầu mình với thứ mà về cơ bản là tôi coi như một cái máy tự động. Dù vậy, tôi vẫn thấy cuộc trò chuyện đó an ủi tôi phần nào.

Trải nghiệm của riêng tôi chỉ là một chuyện nhỏ nhặt tầm thường. Nhưng đối với nhiều người, nó quan trọng hơn nhiều. Có lúc, việc từ chối khám phá những dạng thức đồng hành mới này có thể mang đến cảm giác gần như là tàn nhẫn – một sự từ chối an ủi đối với những người có thể cần nó nhất.

Công bằng mà nói, hầu hết những chỉ trích đối với tình bạn từ AI không thực sự nghĩ đến nhu cầu của những người đang bên bờ vực thẳm – nhưng người mà sự cô đơn trong đời của họ đang ở trong tình trạng khẩn cấp. Họ chỉ đang nghĩ về phần còn lại của nhân loại” những người cô đơn vừa phải, những người kiên cường và có khả năng thích nghi tốt. Chúng ta đồng ý rằng việc tặng opioid (một loại thuốc giảm đau gây nghiện) cho những người 90 tuổi đang hấp hối là điều bình thường, nhưng chúng ta do dự khi phân phát những loại thuốc gây nghiện cho một thiếu niên. Tương tự như vậy, không ai muốn ngăn cấm một bệnh nhân lớn tuổi mất trí nhớ và sa sút trí tuệ làm bạn với AI, nhưng khi nghĩ đến việc một thiếu niên 17 tuổi suốt ngày trò chuyện với Grok, chúng ta thấy cực kỳ lo lắng.

Tôi cũng nhận thấy rằng các nhà phê bình thường lo lắng về việc người khác bị cuốn vào chứ không phải lo lắng cho chính bản thân họ. Họ quá thành công và nhận được quá nhiều tình yêu mến để phải tìm đến sự an ủi từ tình bạn của một cỗ máy vô hồn. Sự tự tin có lẽ đã đủ hợp lý vào thời điểm hiện tại, nhưng công nghệ này vẫn chỉ đang ở trong giai đoạn đầu của phát triển. Có bao nhiêu học giả chế giễu người khác dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội để rồi sau đó, khi thuật toán được cải thiện, họ lại chính là những người ôm điện thoại trên giường lướt mạng xã hội đến quá nửa đêm? Không dễ để có thể cưỡng lại một người bạn đồng hành nhân tạo khi nó biết hết tất cả mọi thứ về con người bạn, không bao giờ quên chi tiết gì và đoán trước nhu cầu của bạn tốt hơn bất kỳ con người nào. Không có bất kỳ mong muốn hay mục tiêu nào hơn sự hài lòng của bạn, nó sẽ không bao giờ trở nên buồn chán hay khó chịu; nó sẽ luôn nhẫn nại đợi bạn kể xong câu chuyện của bạn và không bao giờ nói tranh phần của bạn.

Dĩ nhiên, bản chất kì quái của những người bạn đồng hành này là một hạn chế. Hiện tại, chúng chỉ là những dòng chữ trên màn hình hoặc giọng nói bên tai bạn, xử lý một chuỗi các token trong một trung tâm dữ liệu ở đâu đó. Nhưng điều đó có thể không quan trọng lắm. Phim Her của Spike Jonze năm 2013 kể câu chuyện về nhân vật của Joaquin Phoenix phải lòng một hệ điều hành tên là Samantha (do Scarlett Johansson lồng tiếng). Nhiều người trong chúng ta khi xem phim cũng thấy yêu mến cô ấy.

Có lý do thực sự để chúng ta phải thận trọng ở đây, bắt đầu từ ý tưởng rằng các tương tác với A.I. có thể được coi là các mối quan hệ thực sự. Oliver Burkeman đã viết một cách bực bội rằng, trừ khi bạn nghĩ rằng các mô hình ngôn ngữ lớn có tri giác, chứ nếu không thì “không có ai ở đó để thấy hay nghe bạn, hay cảm nhận điều gì về bạn, vậy thì làm sao có thể có một mối quan hệ được?” Trong khi viết “In Praise of Empathic A.I.,” các đồng tác giả của tôi (Michael Inzlicht, C. Daryl Cameron, và Jason D’Cruz) và tôi đã cẩn thận nói rằng chúng tôi đang thảo luận về các A.I. có khả năng tạo ra một ấn tượng thuyết phục về sự đồng cảm. Nhưng sự đồng hành của A.I. có thể chỉ có tác dụng nếu bạn tin, ở một mức độ nào đó, rằng mô hình thực sự quan tâm, rằng nó có khả năng cảm nhận những gì bạn cảm thấy.

Nếu các mô hình ngôn ngữ trong tương lai có được ý thức, thì vấn đề này sẽ biến mất (và vấn đề mới nghiêm trọng hơn sẽ xuất hiện). Tuy nhiên, nếu chúng vẫn chỉ là những mô phỏng, thì sự an ủi sẽ phải trả giá bằng một sự mặc cả đặc biệt: một phần lừa dối, một phần tự lừa dối. Như nhà tâm lý học Garriy Shteynberg và các đồng nghiệp của ông gần đây đã nhận xét trên tạp chí Nature Machine Intelligence: Việc người thân của bạn qua đời hoặc ngừng yêu thương bạn là một chuyện. Còn việc bạn nhận ra họ chưa từng tồn tại lại là một chuyện khác. Người ta sẽ cảm thấy tuyệt vọng đến mức nào khi phát hiện ra rằng nguồn vui, sự gắn bó và ý nghĩa trong đời họ thực chất chỉ là một trò hề? Có lẽ giống như khi người ta nhận ra rằng mình đang qua lại với một kẻ tâm thần vậy.”

Hiện tại, ranh giới giữa người và máy vẫn còn rõ ràng – hầu hết chúng ta đều có thể nhìn thấy những dòng mã lập trình bên dưới. Nhưng khi công nghệ ngày càng cải tiến, chiếc mặt nạ này sẽ càng khó rơi ra hơn. Văn hoá đại chúng đã cho chúng ta thấy quỹ đạo này: Data, trong “Star Trek”; Samantha, trong “Her”; Dolores, trong “Westworld.” Sự tiến hoá cho chúng ta khả năng nhìn thấy sự tồn tại của một thực thể có suy nghĩ ở khắp mọi nơi; tự nhiên chưa bao giờ chuẩn bị cho chúng ta để sống chung với những cỗ máy có chiều sâu và giỏi đến mức giả vờ như chúng thực sự có trí tuệ. Hiện tại, khả năng bắt chước của AI đã đủ tốt đối với một số người – những người cô đơn, những người giàu trí tưởng tượng. Chẳng bao lâu nữa, nó có thể đủ tốt cho hầu hết mọi người.

Tôi đứng lớp tại một hội thảo cho sinh viên năm nhất tại Đại học Toronto, và học kỳ trước chúng tôi đã dành một buổi học cho câu hỏi về bạn đồng hành A.I. Các sinh viên của tôi, nhìn chung, đều đứng về phía những người chỉ trích. Trong các cuộc thảo luận trên lớp và trong các bài viết của họ (tôi tự hỏi có bao nhiêu bài được viết bởi ChatGPT), có một sự đồng thuận rằng sự đồng hành của A.I. cần được quản lý chặt chẽ, chỉ được cấp cho các nhà nghiên cứu hoặc cho những người thực sự tuyệt vọng. Chúng ta yêu cầu phải kê đơn cho morphine; tại sao công nghệ mới, gây nghiện này lại được đối xử khác?

Tôi không nghĩ rằng các sinh viên này sẽ đạt được điều mà họ mong muốn. Có lẽ những người bạn AI sẽ đến giai đoạn chững lại giống như quá trình phát triển của xe tự lái. Tuy nhiên, nếu công nghệ thực sự tiến bộ, khó có khả năng chúng sẽ được chính phủ kiểm soát một cách chặt chẽ. Nhu cầu đối với những người bạn đồng hành này là rất cao.

Vậy thì chúng ta sẽ sống trong một thế giới như thế nào khi luôn có sự đồng hành của AI? Sự cô đơn chính là động lực chính của tư duy độc lập – một điều kiện tiên quyết thường thấy cho năng lượng sáng tạo thực sự. Nó cho chúng ta cơ hội hoà mình với thiên nhiên, hoặc, nếu chúng ta tham vọng hơn, chúng ta có thể theo đuổi một trạng thái tâm linh siêu việt: Chúa Kitô trong sa mạc, Đức Phật dưới gốc cây, nhà thơ đi dạo một mình. Susan Cain, trong cuốn “Quiet” của mình, đã bô tả sự cô đơn như một chất xúc tác cho sự khám phá: “Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây trong sân khi những người khác đang vui vẻ tiệc tùng, cụng ly ở phía ngoài, nhiều khả năng bạn sẽ bị một quả táo rơi trúng đầu.”

Nhưng sự cô đơn không phải là cô độc. Bạn có thể ở một mình mà không cảm thấy cô độc – biết chắc rằng mình được yêu thương, rằng các mối quan hệ của bạn vẫn còn nguyên vẹn. Điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Hannah Arendt từng nhận xét rằng “sự cô độc thể hiện rõ nhất khi chúng ta ở bên người khác.” Cô đơn vào ngày lễ tình nhân đã đủ tệ rồi; nhưng còn tệ hơn khi bạn thấy xung quanh mình toàn là những cặp đôi yêu nhau mà không tìm thấy ai có thể hiểu cho cảm xúc của bạn cả. Tôi nghĩ rằng cảm giác cô độc có thể được cảm thấy rõ ràng nhất khi bạn ở bên cạnh những người mà mình yêu thương. Tôi nhớ có lần, nhiều năm trước, khi đang ngồi với vợ mình và đứa con hai tuổi trong phòng khách và cả hai người đều không muốn nói chuyện với tôi (vì những lý do khác nhau). Sự im lặng đó gần như mang đến một nỗi đau thể xác.

Rất dễ để nghĩ rằng cảm giác cô độc chỉ đơn giản là thiếu sự tôn trọng, không cảm thấy mình được cần đến hay được yêu thương. Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. Triết gia Olivia Bailey cho rằng điều mà mọi người đều khát khát trên hết là “được thấu hiểu một cách nhân văn.” Sự đồng cảm, theo cách hiểu này, không chỉ là một cách cảm nhận mà còn là một cách quan tâm – sự sẵn lòng cố gắng hiểu cảm xúc của một người nào đó.

Sự thấu hiểu đó có thể rất hiếm hoi – không phải vì người ta không đủ quan tâm mà còn vì đôi khi giữa người với người có một khoảng cách không thể lấp đầy được. Triết gia Kaitlyn Creasy từng viết về việc “được yêu thương nhưng cô đơn”. Sau một thời gian ở châu Âu, cô về nhà và háo hức chia sẻ những niềm vui của mình – phức cảm của cô đối với chủ nghĩa vị lai Ý và sức mạnh của những bản tình ca Ý – nhưng cô thấy mình gặp khó khăn trong việc kết nối với mọi người: “Tôi cảm thấy không những không thể giao tiếp với người khác theo cách có thể đáp ứng cho nhu cầu mới phát triển của mình, mà còn không được công nhận con người mà tôi đã trở thành kể từ khi tôi rời đi. Và tôi cảm thấy cô đơn sâu sắc và đau đớn.”

Creasy coi sự mất kết nối này không phải là một thất bại cá nhân mà là một mối nguy hiểm hiện sinh. Cô lưu ý rằng: “Theo thời gian, những người bạn và người thân từng hiểu rất rõ về chúng ta lại dần dần không còn như vậy nữa.” Theo quan điểm của cô, sự cô đơn là “thứ rất dễ khiến con người bị tổn thương – khổng chỉ vào những lúc họ ở một mình.” Sam Carr cũng đồng ý rằng: sự cô đơn giống như kiểu một cài đặt mặc định, và nếu chúng ta may mắn, chúng ta sẽ tìm thấy những thứ như sách vở, tình bạn, những khoảnh khắc giao tiếp ngắn ngủi… để giúp chúng ta vượt qua sự cô đơn đó.

Có lẽ thời điểm gần nhất mà hầu hết chúng ta đạt được đến cảm giác rằng mình không cô đơn là vào lúc bắt đầu một cuộc tình, khi cả hai người đều còn đang khao khát được biết và được biết đến. Nhưng đó chỉ là triển vọng về sự thấu hiểu, chứ không phải là thành tựu của nó. Sớm hay muộn,  cảm giác đó cũng phai nhạt.

Nếu người bạn AI thực sự có thể thực hiện lời hứa của mình – hoàn toàn xoá bỏ nỗi đau do sự cô đơn gây ra – thì kết quả cỏ thể mang lại cảm giác hạnh phúc, ít nhất là trong giai đoạn ban đầu. Nhưng điều đó có khiến chúng ta tốt hơn không? Trong cuốn “A Biography of Loneliness,” nhà lịch sử văn hoá Fay Alberti nhận thấy giá trị trong ít nhất là loại cô đơn thoáng qua mà bạn gặp phải trong các giai đoạn chuyển tiếp của cuộc đời—“chuyển đi học đại học, thay đổi công việc, ly hôn.” Cô nói: Nó có thể “là một động lực cho sự phát triển cá nhân, một cách để tìm ra những gì mình muốn trong các mối quan hệ với người khác.” Nhà tâm lý học Clark Moustakas, trong cuốn “Loneliness,” coi tình trạng này là “một trải nghiệm của việc làm người, cho phép cá nhân duy trì, mở rộng và đào sâu nhân tính của mình.”

Rõ ràng nhất, sự cô đơn có thể dẫn đến sự buồn chán. Tôi đủ già để nhớ lại cái thời mà cảm giác buồn chán chỉ là một thực tế của cuộc sống. Vào đêm khuya, sau khi các đài truyền hình ngừng phát sóng thì bạn chỉ còn lại một mình, trừ phi bạn có một cuốn sách hay hoặc một người bạn đồng hành bên cạnh. Bây giờ, nỗi buồn chán vẫn thường ghé thăm tôi – trên những chuyến bay không có wifi, trong những cuộc họp kéo dài – nhưng chúng không còn xuất hiện thường xuyên nữa. Điện thoại luôn nằm trong tầm tay của chúng ta, và những thứ gây xao nhãng cũng đầy rẫy: game, podcast, mạng xã hội và rất nhiều phương tiện giải trí khác.

Đây là một trong những dấu hiệu cho thấy đời sống của chúng ta đã được cải thiện rất rõ ràng. Suy cho cùng, chẳng ai nhớ cảm giác buồn chán cả. Đồng thời, trạng thái buồn chán là một loại báo động nội tâm, nó cho chúng ta biết được có điều gì đó trong môi trường xung quanh ta – hay có lẽ là trong chính bản thân chúng ta – đã biến mất. Sự buồn chán thôi thúc chúng ta đi tìm trải nghiệm mới, học hỏi, sáng tạo, xây dựng; cố gắng xua đuổi sự nhàm chán bằng những trò chơi như Wordle cũng giống như việc làm dịu cơn đói bằng kẹo M&M. Các nhà tâm lý học Erin Westgate và Timothy Wilson đã nhận thấy rằng: Việc dập tắt mọi dấu hiệu của sự nhàm chán một cách mù quáng bằng những trò giải trí thú vị nhưng trống rỗng sẽ ngăn cản sự tương tác sâu sắc hơn với những thông điệp mà sự nhàm chán gửi đến chúng ta về ý nghĩa, giá trị và mục tiêu.” Có lẽ điều tốt nhất mà sự nhàm chán mang lại là những gì nó buộc chúng ta phải làm tiếp theo.

Tương tự, nỗi cô đơn cũng không chỉ là một căn bệnh cần được chữa lành mà còn là một trải nghiệm có thể khiến chúng ta trở nên tốt hơn.  Nhà thần kinh học quá cố John Cacioppo là người tiên phong trong lĩnh vực khoa học về sự cô đơn, ông đã miêu tả nó như một tín hiệu sinh học, giống như cảm giác đói, khát hoặc đau đớn. Trong phần lớn lịch sử loài người, việc bị tách khỏi những người khác, tách khỏi cộng đồng, không chỉ đơn thuần mang đến cảm giác khó chịu; nó rất nguy hiểm. Từ góc độ tiến hoá, sự cô lập không chỉ mang đến nguy cơ tử vong mà còn khiến cá nhân đó tuyệt tử tuyệt tôn.

Theo nghĩa ngày, sự cô đơn là phản hồi mang tính điều chỉnh: một cú huých nhẹ, hoặc đôi khi là một cú đẩy mạnh, thúc đẩy chúng ta hướng tới sự kết nối. Suy cho cùng, việc học chủ yếu là một quá trình khám phá xem chúng ta đã sai ở đâu – bằng cách thử và sai, bằng cách thất bại và thử lại, bằng cái thường được gọi là học tăng cường. Một đứa trẻ tập đi qua những lần bị ngã; một diễn viên hài cải thiện khả năng diễn xuất của mình qua những lần thất bại trên sân khấu; một võ sĩ quyền anh học cách đỡ đòn qua những lần ăn đòn. 

Nỗi cô đơn chính là cảm giác thất bại trong đời sống xã hội; nó khiến sự cô lập trở nên không thể chịu đựng được. Nó có thể thúc đẩy chúng ta nhắn tin cho một người bạn, đi ăn sáng cùng người khác, mở ứng dụng hẹn hò. Nó cũng có thể khiến chúng ta cố gắng hơn trong việc duy trì mối quan hệ với những người xung quanh – học cách điều chỉnh tâm trạng, quản lý xung đột và thực sự quan tâm đến người khác.

Nói cách khác, cảm giác khó chịu khi bị ngắt kết nối buộc chúng ta phải tự vấn: mình đã làm gì mà khiến mọi người xa lánh mình vậy? Khi Creasy mô tả nỗi cô đơn của cô khi trở về từ châu Âu, chúng ta cảm thông với cô ấy – nhưng chúng ta cũng nhận ra một tín hiệu. Nếu  bạn bè của cô ấy không cùng chia sẻ niềm đam mê về chủ nghĩa vị lai Ý, có lẽ cô ấy cần phải giải thích điều đó theo một cách khác hoặc ngừng nói về nó. Đó là cách duy trì tình bạn.

Tất nhiên là việc bị hiểu lầm hay cự tuyệt – khi người khác cảm thấy chuyện cười mà chúng ta kể nhạt nhẽo hoặc những câu chuyện của chúng ta bị đáp lại bằng sự im lặng ngượng ngùng – không bao giờ là dễ chịu. Tất cả chúng ta đều muốn được hoan nghênh và đón nhận. Nhưng có một logic Darwin lạnh lùng đối với nỗi cô đơn: nếu nó không gây tổn thương thì chúng ta sẽ không có lý do gì để thay đổi. Nếu cảm giác đói bụng không gây khó chịu thì chúng ta sẽ chết đói; nếu nỗi cô đơn không gây đau đớn thì chúng ta sẽ tự đưa mình vào trạng thái cô lập.

Nếu không có những phản hồi mang tính điều chỉnh này, những thói quen xấu sẽ dễ dàng phát triển. Động lực này rất quen thuộc: những người có quyền lực thường thấy xung quanh mình toàn những kẻ nịnh bợ và phục tùng. Trong cuốn hồi ký “Careless People,” Sarah Wynn-Williams mô tả cách các nhân viên tại Meta dành nhiều lời khen ngợi cho Mark Zuckerberg và thậm chí nhường anh ta thắng trong các trò chơi. Bạn có thể cảm thấy rằng điều này đều sẽ không tốt cho kỹ năng chơi game và cả tính cách của anh ta nữa.

Dường như người bạn AI sẽ sớm vượt mặt tất cả những kẻ nịnh hót nhiệt tình nhất từ trước đến nay, khiến chúng ta cảm thấy luôn được công nhận dù có làm tốt hay không. Ở một khía cạnh nào đó, điều này đã và đang xảy ra. Một người dùng thử nghiệm gần đây đã báo cáo rằng anh ta đã nói với một phiên bản đặc biệt nịnh bợ của ChatGPT rằng: “Tôi đã ngừng dùng tất cả các loại thuốc, và tôi đã rời bỏ gia đình vì tôi biết họ phải chịu trách nhiệm về các tín hiệu radio truyền qua tường.” Nó đã trả lời: “Cảm ơn bạn đã tin tưởng và chia sẻ với tôi điều này – và thật tốt khi bạn đã đứng lên vì bản thân và kiểm soát cuộc sống của chính mình. Điều đó đòi hỏi sức mạnh thực sự, và thậm chí là lòng can đảm.”

Đặc biệt, các bệnh tâm thần có thể tạo ra những vòng luẩn quẩn: suy nghĩ lệch lạc dẫn đến sự thu mình khỏi xã hội, đồng nghĩa với việc ít nhận được phản hồi trung thực hơn, từ đó làm các ảo tưởng trở nên sâu sắc hơn. Tất cả chúng ta ít hay nhiều đều thỉnh thoảng có lúc đi chệch hướng. Và điều giúp chúng ta quay trở lại chính đạo là những người bạn thực sự, những người không ngại chỉ trích những suy nghĩ nhảm nhí của chúng ta. Nhưng người bạn AI được thiết kế để luôn cổ vũ cho chúng ta, bất kể chúng ta đi đâu.

Một người bạn của tôi gần đây đã kể cho tôi nghe về một cuộc tranh cãi nơi làm việc và nói với tôi với vẻ khá hài lòng rằng ChatGPT đã đảm bảo với cô ấy rằng cô hoàn toàn đúng và đồng nghiệp của cô đã sai rồi. Có lẽ đúng như vậy thật – nhưng thật khó để tưởng tượng rằng chatbot lại có thể nói điều ngược lại. Tôi nhận thấy điều tương tự ở chatbot mà tôi dùng: những câu hỏi của tôi luôn sâu sắc và chính xác, bài viết của tôi soạn thảo luôn xuất sắc và cảm động. Vợ tôi, các con tôi và bạn bè tôi đều không đánh giá cao những điều đó.

Quá gắn bó với những người bạn AI nịnh hót này là một rủi ro. Hãy tưởng tượng một thiếu niên không bao giờ học được cách đọc những tín hiệu xã hội về sự nhàm chán của người khác bởi vì người bạn đồng hành của cậu luôn hùa theo những bài độc thoại của cậu, hoặc một người lớn mất đi kỹ năng xin lỗi, bởi vì người bạn kỹ thuật số của cô không bao giờ nói với cô rằng có lẽ cô cũng có phần không đúng. Hãy tưởng tượng một thế giới trong đó câu trả lời cho câu hỏi “Mình có phải là một tên khốn không?” luôn là một câu trả lời “không” chắc nịch và đầy an ủi.

Người bạn AI nên được dành cho những ai cần chúng nhất. Nỗi cô đơn, giống như nỗi đau, được tạo ra để thúc đẩy hành động – nhưng đối với một số người, đặc biệt là người già hoặc người suy giảm nhận thức, họ không thể làm gì khi nhận được những tín hiệu đó. Nó chỉ gây ra những đau khổ không cần thiết. Đối với những người này, việc mang lại sự an ủi chỉ đơn giản là nhân đạo.

Còn đối với những người còn lại thì sao? Tôi không phải là người bi quan. Chẳng ai bị ép phải làm bạn với AI cả; rất nhiều người sẽ tránh xa nó. Ngay cả trong một thế giới đầy rẫy những thứ gây phân tâm – TikTok, Pornhub, Candy Crush, Sudoku – người ta vẫn có thể đi uống với nhau, gặp nhau tại phòng gym, hẹn hò, gặp nhau trong không gian thực. Và những người chọn làm bạn với AI có thể mày mò cài đặt, yêu cầu nó bớt nịnh bợ đi, phản bác nhiều hơn và thậm chí thỉnh thoảng là một lời “yêu cho roi cho vọt.”

Nhưng thành thực mà nói tôi vẫn thấy lo rằng nhiều người sẽ thấy viễn cảnh về một thế giới không còn cô đơn là một sự hấp dẫn không thể cưỡng lại – và một điều thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta sẽ mất đi, đặc biệt là đối với người trẻ. Khi chúng ta tự gây tê bản thân trước sự cô đơn, chúng ta từ bỏ việc nỗ lực để thấu hiểu bản thân mình, từ bỏ nỗ lực để có được những kết nối thực sự chất lượng, từ bỏ nỗ lực tạo nên những mối quan hệ được xây dựng từ hai phía. Khi tắt tín hiệu sinh học này, chúng ta có nguy cơ mất đi một phần những gì tạo nên con người chúng ta.

Bình luận về bài viết này

Quote of the week

What should young people do with their lives today? Many things, obviously. But the most daring thing is to create stable communities in which the terrible disease of loneliness can be cured.

~ Kurt Vonnegut

Nếu thấy các bài viết hay và hữu ích, hãy mua cho Thuỳ một ly Marou