Tác giả: Joan Didion, một trong những nhà văn, nhà báo và nhà viết tiểu luận vĩ đại và có ảnh hưởng nhất của văn học Mỹ hiện đại.
Thuỳ sưu tầm và biên dịch
Có một lần, trong cơn bế tắc, tôi đã viết vào sổ tay mình rằng: sự ngây thơ chấm dứt khi người ta nhận ra mình không yêu bản thân mình nhiều như mình nghĩ. Sau nhiều năm nhìn lại, tôi ngạc nhiên thấy mình từng bị ám ảnh bởi nỗi đau của mình đến mức dù tâm trí lúc đó đang hết sức rối bời thì tôi vẫn chăm chút ghi lại từng cơn chấn động dù là nhỏ nhất. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in mùi vị của sự sụp đổ của lòng tự trọng, sự tan vỡ của những ảo tưởng ngây thơ. Đó là một sự ngộ nhận về lòng tự trọng.
Tôi đã không được bầu vào Phi Beta Kappa (một hội tôn vinh thành tích học thuật danh giá). Thất bại này quá hiển nhiên và chẳng có gì bất ngờ (tôi không đủ điểm), vậy mà tôi vẫn sốc. Bấy lâu nay, tôi đã tự huyễn hoặc mình là một dạng Raskolnikov trong học thuật, kẻ đặc biệt đứng trên mọi quy tắc, miễn nhiễm hoàn toàn với luật nhân quả vốn trói buộc những người khác.
Dù cô gái mười chín tuổi là tôi lúc đó có thích nghiêm trọng hóa vấn đề đến đâu thì tôi cũng thừa biết việc thi trượt chẳng phải bi kịch gì to tát. Vậy nhưng cái ngày tôi không vào được Phi Beta Kappa vẫn đánh dấu sự kết thúc của một điều gì đó, và “sự ngây thơ” có lẽ là từ thích hợp nhất. Tôi nhận ra rằng không phải lúc nào đèn giao thông cũng xanh khi mình đi qua. Tôi mất đi niềm tin ngây ngô rằng những ‘đức tính thụ động’ vốn là thứ giúp tôi có được sự ưu ái của người lớn khi tôi còn nhỏ — như sự ngoan ngoãn, tóc tai sạch sẽ hay chỉ số IQ cao — sẽ nghiễm nhiên đảm bảo cho tôi một vị trí ở Phi Beta Kappa, mà còn tự động mang đến cho tôi hạnh phúc, danh dự và cả tình yêu của một người đàn ông tốt nữa. Bấy lâu nay, lòng tự trọng của tôi chỉ bám víu vào những tấm bùa hộ mệnh phù phiếm ấy, và ngày hôm đó tôi buộc phải đối mặt với chính mình trong sự lo âu bối rối của một kẻ tình cờ gặp ma cà rồng mà trong tay không có thánh giá.
Việc bị kéo ra khỏi vỏ bọc và phải tự đối diện với chính mình thật chẳng dễ chịu gì, nó giống như việc mình cố gắng vượt biên bằng giấy tờ đi mượn vậy á, nhưng giờ đây tôi thấy đó là điều kiện tiên quyết để một người có thể bắt đầu có lòng tự trọng thực sự. Bất chấp hầu hết những lời sáo rỗng của chúng ta, tự lừa dối bản mình khó hơn nhiều so với lừa dối người khác. Khi ta chạm trán với lương tâm của mình, mọi nụ cười xã giao hay những lời hứa hão đều vô nghĩa. Chúng ta cố gắng chơi bạc bịp với lương tâm của mình: những việc tốt được thực hiện một cách đầy toan tính, những chiến thắng vẻ vang có được nhờ may mắn, những hành động anh hùng mà chúng ta làm vì sĩ diện. Sự thật phũ phàng là: Lòng tự trọng chẳng liên quan gì đến sự tán thưởng của người đời hay việc người khác nghĩ gì về bạn – thiên hạ vốn là những kẻ vốn dĩ rất dễ bị qua mặt, bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Lòng tự trọng cũng không liên quan gì đến danh tiếng – những người có bản lĩnh thực sự có thể vứt bỏ cái danh hão đó mà vẫn sống tốt (như lời Rhett Butler từng nói với Scarlett O’Hara trong Cuốn theo chiều gió).
Ngược lại thì việc sống mà không có lòng tự trọng cũng giống như việc phải trở thành khán giả bất đắc dĩ duy nhất của một bộ phim tài liệu dài lê thê kể chi tiết về những thất bại của chính ta – cả trong thực tế lẫn trong tưởng tượng – với các đoạn phim mới về những sai lầm mới nhất liên tục được bổ sung vào thêm sau mỗi lần chiếu. Đây là cảnh bạn đập bể cái ly trong cơn nóng giận, kia là vẻ mặt tổn thương của X. Và nhìn kỹ đi, cảnh tiếp theo là cái đêm Y từ Houston về ấy, xem bạn đã cư xử ngu ngốc ra sao. Nếu sống mà không có lòng tự trọng, người ta sẽ phải trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ mà không có gì có thể xoa dịu được – dù có uống sữa ấm, uống thuốc an thần hay nằm bên cạnh người mà ta yêu thương. Ta nằm đó kiểm kê tội lỗi của mình, đếm lại số những điều sai trái đã làm và những điều đúng đắn đã bỏ bê, những niềm tin bị phản bội, những lời hứa bị lờ đi một cách tinh vi, những tài năng đã bị lãng phí vĩnh viễn bởi sự lười biếng, hèn nhát hoặc cẩu thả. Dù có trì hoãn bao lâu đi nữa, cuối cùng ta vẫn phải một mình nằm xuống trên chiếc giường nổi tiếng là khó chịu ấy – chiếc giường do chính tay ta dọn sẵn. Và việc ta có thể ngủ yên trên đó hay không, tất nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào việc ta có tôn trọng bản thân mình hay không.
Có người sẽ phản bác rằng: “Tại sao có những kẻ sống không ra gì, hoàn toàn không có lòng tự trọng, lại vẫn có thể kê cao gối ngủ một cách ngon lành?” Nhưng như vậy thì những người này đã hoàn toàn hiểu sai vấn đề. Cái sai này cũng ngớ ngẩn như việc cho rằng lòng tự trọng đồng nghĩa với sự chỉn chu bề ngoài. Có một hiểu lầm phổ biến coi lòng tự trọng như tấm kim bài miễn tử trước mọi cám dỗ. Người ta tưởng rằng người có lòng tự trọng sẽ được bao bọc an toàn trong một vườn Địa Đàng không tì vết: không bao giờ sa vào những cuộc tình một đêm vạ vật, không bao giờ rơi vào những tình huống lấp lửng về đạo đức, và miễn nhiễm với mọi rắc rối nói chung. Nhưng sự thật lại hoàn toàn không phải là như vậy. Lòng tự trọng chẳng liên quan gì đến thể diện hay vẻ bề ngoài của sự việc. Cốt lõi của nó là sự bình yên nội tại – một sự bình yên tách biệt khỏi thế giới – và một cuộc hòa giải thầm kín giữa ta với chính ta. Hãy xem xét hai nhân vật: Julian English trong Hẹn gặp ở Samarra – một kẻ sống buông thả và luôn tìm cách tự hủy hoại mình; và Jordan Baker trong Đại gia Gatsby – một kẻ cũng buông thả và dối trá hết thuốc chữa. Thoạt nhìn, cả hai đều có vẻ là những kẻ không-thể-nào có lòng tự trọng. Thế nhưng nghịch lý thay, Jordan Baker lại sở hữu nó, còn Julian English thì không. Với khả năng thích nghi thiên bẩm thường thấy ở phụ nữ (dù đàn ông cũng có nhưng hiếm hơn), Jordan tự biết lượng sức mình. Cô tự thỏa hiệp với bản chất của mình và chủ động tránh xa mọi thứ đe dọa đến sự bình yên bên trong mình. Cô từng nói với Nick Carraway rằng: “Tôi ghét những kẻ bất cẩn. Phải có hai người [bất cẩn gặp nhau] mới gây ra tai nạn được.”
Giống như Jordan Baker, những người có lòng tự trọng có can đảm chịu trách nhiệm cho những sai lầm của họ. Họ biết cái giá của mọi thứ. Nếu họ đã quyết định phạm tội ngoại tình, họ sẽ không vì cắn rứt lương tâm mà vội vàng chạy về xin người bị hại (vợ/chồng) tha thứ – chỉ để bản thân mình được nhẹ lòng. Họ cũng sẽ không than vãn ỉ ôi rằng đời bất công, hay kêu ca về nỗi nhục nhã ‘oan uổng’ khi bị bêu tên là kẻ thứ ba phá hoại gia đình người khác. Nói một cách ngắn gọn, người có lòng tự trọng thể hiện một sự cứng cỏi nhất định, một dạng bản lĩnh đạo đức. Họ thể hiện cái mà người xưa gọi là ‘cốt cách’ (character). Đây là một phẩm chất mà tuy ai cũng ca ngợi trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, nó thường bị lép vế trước những đức tính khác thức thời hơn, dễ dàng thỏa hiệp và mang lại lợi ích ngay lập tức. Bằng chứng rõ nhất cho thấy ‘cốt cách’ đã mất giá thảm hại là: ngày nay người ta thường chỉ dùng từ này như một giải an ủi dành cho những đứa trẻ “chỉ đẹp nết chứ không đẹp người” hoặc những thượng nghị sĩ thất cử – đặc biệt là những kẻ thua cuộc nhục nhã ngay từ vòng gửi xe. Tuy nhiên, cốt cách – hay chính là sự sẵn sàng chịu trách nhiệm cho cuộc đời của riêng mình – là nguồn gốc sinh ra lòng tự trọng.
Ông bà chúng ta hiểu rất rõ về lòng tự trọng, bất kể họ có thực sự sở hữu nó hay không. Từ khi còn nhỏ, họ đã được rèn giũa một loại kỷ luật nhất định. Họ quan niệm rằng sống là phải chấp nhận làm những việc mình không hề thích, là gạt bỏ nỗi sợ hãi và nghi ngờ sang một bên, là sẵn sàng hy sinh những sự thoải mái trước mắt để đổi lấy những giá trị lớn lao hơn, dù đôi khi mơ hồ. Đối với người thế kỷ 19, việc Tướng Gordon mặc bộ quân phục trắng tinh tươm để trấn thủ thành Khartoum giữa vòng vây kẻ thù là một hành động đáng ngưỡng mộ, nhưng không phải là chuyện gì quá phi thường (họ coi đó là bổn phận). Họ cũng chẳng thấy có gì bất công khi cái giá để khai hoang miền đất hứa California là phải đối mặt với cái chết, sự gian khổ và bụi bặm bùn lầy. Trong cuốn nhật ký mùa đông năm 1846, một cô bé di dân 12 tuổi tên Narcissa Cornwall đã ghi lại sự việc một cách tỉnh bơ: ‘Cha đang bận đọc sách và không để ý rằng trong nhà đang chật kín những người da đỏ lạ mặt cho đến khi Mẹ lên tiếng nhắc.’ Dù không biết người mẹ đã nói gì, ta không thể không ấn tượng trước bản lĩnh của cả gia đình trong tình huống đó: người cha vẫn bình thản đọc sách, người da đỏ cứ thế đi vào, người mẹ chọn từ ngữ khéo léo để không gây hoảng loạn, và đứa trẻ thì làm tròn trách nhiệm ghi chép sự kiện, còn chú thích thêm rằng ‘may cho chúng tôi’ là nhóm người da đỏ này không có ý thù địch. Đối với họ, người da đỏ (hay những nguy hiểm rình rập) đơn giản chỉ là một phần tất yếu của thực tại mà họ phải chấp nhận.
Dù dưới vỏ bọc nào đi nữa, những ‘người da đỏ’ (tức là những rủi ro và nguy hiểm thường trực) vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta. Vấn đề cốt lõi vẫn là việc nhận thức rằng: bất cứ thứ gì đáng giá đều có cái giá của nó. Những người có lòng tự trọng sẵn sàng chấp nhận các rủi ro đó: họ chấp nhận rằng ‘người da đỏ’ có thể sẽ tấn công, rằng phi vụ làm ăn có thể phá sản, rằng hôn nhân có thể sẽ đổ vỡ, người ta sẽ có ngày vỡ mộng chứ không mãi mãi sống trong những ngày lễ hội vui vẻ chỉ vì ‘anh cưới được em’. Họ sẵn sàng dấn thân. Họ có thể không chơi, nhưng hễ đã chơi, họ biết rõ xác suất thành bại.
Lòng tự trọng thực chất là một dạng kỷ luật, một thói quen tư duy không thể làm giả, nhưng hoàn toàn có thể rèn luyện, phát triển và khơi dậy dần dần. Có lần, người ta khuyên tôi nên trùm đầu vào một cái túi giấy để trị chứng hay khóc. Hóa ra nó dựa trên một nguyên lý sinh học liên quan đến nồng độ oxy, nhưng tác động tâm lý của nó mới thực sự quan trọng: Bạn không thể nào tiếp tục đóng vai nữ chính bi thương như Cathy trong Đồi Gió Hú khi đang đội trên đầu cái túi giấy rẻ tiền của siêu thị Food Fair. Các kỷ luật nhỏ khác cũng hoạt động theo cơ chế tương tự: đố bạn có thể duy trì bất kỳ trạng thái đê mê nào – dù là sự thương cảm bi lụy hay ham muốn xác thịt – khi đang đứng dưới vòi hoa sen nước lạnh buốt.
Tuy nhiên, những kỷ luật nhỏ nhặt đó chỉ có giá trị khi chúng đại diện cho những nguyên tắc lớn lao hơn. Hãy lấy ví dụ câu nói nổi tiếng: ‘Chiến thắng Waterloo bắt nguồn từ sân tập của trường Eton’. Điều này không có nghĩa là Napoleon lẽ ra đã thoát nạn nếu đi học một khóa cấp tốc về môn bóng gậy (cricket). Ý nghĩa thực sự của nó là: bản lĩnh được rèn luyện qua thể thao học đường đã tạo nên chiến thắng trên chiến trường. Tương tự, việc bày biện bữa tối một cách trang trọng giữa rừng mưa nhiệt đới sẽ là vô nghĩa, nếu như ánh nến chập chờn hắt lên đám dây leo kia không đánh thức được những kỷ luật sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn – những giá trị đã được thấm nhuần từ rất lâu trước đó. Khi một người thực dân (hoặc nhà thám hiểm) thắp nến và ăn tối theo đúng nghi thức bình thường ngay cả khi anh ta đang ở giữa rừng, anh ta không làm thế để đồ ăn ngon hơn. Anh ta làm thế để nhắc nhở bản thân: “Tôi là một con người văn minh, có giáo dục. Tôi không phải là con thú. Dù hoàn cảnh xung quanh có hoang dại thế nào, tôi cũng không cho phép mình biến chất.” Đó là một dạng nghi thức, nhắn cho chúng ta nhớ mình là ai và vị trí của mình là gì. Và tất nhiên, để có thể ‘nhớ lại’ điều đó, ta phải từng ‘biết’ nó từ trước rồi.
Việc sở hữu ý thức về giá trị nội tại của bản thân – thứ cấu thành nên lòng tự trọng – đồng nghĩa với việc có khả năng nắm giữ mọi thứ: năng lực phân biệt cái gì tốt xấu, khả năng yêu thương chân thành và cả khả năng dửng dưng không bận tâm. Thiếu đi lòng tự trọng, ta bị nhốt chặt trong bản ngã, và trớ trêu thay, ta lại mất đi cả khả năng yêu lẫn khả năng dửng dưng. Nếu không tôn trọng chính mình, ta sẽ rơi vào hai thái cực mâu thuẫn: Một mặt, ta buộc phải khinh thường những ai yêu quý mình và chọn ở cạnh mình. Ta nghĩ rằng họ hẳn phải kém cỏi, thiếu thốn hoặc mù quáng lắm mới không nhận ra những khiếm khuyết chết người của ta. Mặt khác, ta lại quỵ lụy bất kỳ ai ta gặp. Vì ta chán ghét con người thật của mình, ta quyết tâm sống theo cái hình ảnh sai lệch mà người khác nghĩ về ta. Ta tự huyễn hoặc mình rằng cái thói ‘luôn cố làm hài lòng người khác’ này là một đức tính hấp dẫn: ta gọi nó là sự thấu cảm sâu sắc, là bằng chứng của sự hào phóng. Tất nhiên rồi, tôi sẵn sàng đóng vai nàng Francesca bi lụy cho chàng Paolo của bạn, hay đóng vai cô bé mù lòa Helen Keller cho bất kỳ ‘cô giáo’ Annie Sullivan nào muốn dẫn dắt tôi. (Tôi rỗng tuếch đến mức tôi sẽ trở thành bất cứ ai mà bạn muốn. Bạn muốn tình yêu bi kịch? Tôi sẽ là Francesca. Bạn muốn cảm thấy mình giỏi giang và che chở cho kẻ yếu? Tôi sẽ giả làm người mù lòa Helen Keller để bạn dắt đi. Bạn muốn tôi đóng vai gì cũng được, lố bịch đến mấy tôi cũng diễn, miễn là bạn đừng bỏ mặc tôi với cái tôi trống rỗng này.) Không kỳ vọng nào đặt sai chỗ, không vai diễn nào là quá lố bịch. Kết cục là, ta phó mặc đời mình cho lòng thương hại của những kẻ mà trong thâm tâm ta coi thường. Ta lao vào đóng những vai diễn chắc chắn sẽ thất bại ngay từ khi chưa bắt đầu. Mỗi lần thất bại lại sinh ra một nỗi tuyệt vọng mới, thúc ép ta phải vội vã đoán ý và đáp ứng ngay đòi hỏi tiếp theo của họ.
Đó là hội chứng ‘đánh mất bản thân’ (alienation from self). Khi chứng này trở nặng, chúng ta thậm chí không dám nhận cuộc gọi đến, chỉ vì sợ ở đầu dây bên kia người ta sẽ đòi hỏi hay nhờ vả một điều gì đó; ta không hề biết rằng mình hoàn toàn có quyền từ chối mà không cần phải dằn vặt bản thân đến chết. Mọi tương tác xã hội đều vắt kiệt sức lực và thần kinh. Chỉ một lá thư chưa trả lời cũng gây ra mặc cảm tội lỗi lớn đến nỗi ta sợ hãi buông xuôi, không bao giờ dám hồi âm nữa. Sức mạnh vĩ đại và độc nhất của lòng tự trọng nằm ở chính chỗ này: Nó giúp ta trả những lá thư chưa hồi âm về đúng trọng lượng nhỏ bé của chúng; nó giải phóng ta khỏi áp lực làm hài lòng người khác; và trao trả ta về với chính mình. Nếu không có lòng tự trọng, ta sẽ lãnh đòn chốt hạ của số phận: Ta chạy trốn khắp nơi để tìm lại bản ngã, nhưng nhận ra bên trong mình chỉ là một căn nhà trống rỗng, không một bóng người.



Bình luận về bài viết này