Tác giả: Ernest Becker
Nguồn: The Denial of Death
Thuỳ sưu tầm và biên dịch
Trong một thời đại hỗn loạn, đầy lo âu và khủng hoảng như hiện nay, cần thiết phải có những khái niệm giúp con người hiểu được tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình; có một sự thôi thúc hướng tới những ý tưởng cốt yếu, có sức sống và thực tế, hướng tới sự đơn giản hóa, lược bỏ những tư duy phức tạp không cần thiết, để giúp con người sống sót và tìm thấy ý nghĩa, tìm ra một giải pháp đơn giản và trực diện để giải quyết nỗi đau khổ của họ. Nhưng khao khát đơn giản hoá này đôi khi khiến con người trở thành nạn nhân của những lời nói dối vĩ đại xuất hiện để giúp giải tỏa căng thẳng và hợp lý hoá các hành động dù tàn bạo hay ngu ngốc tới đâu. (Ví dụ như các hệ tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa tiêu dùng mù quáng, mê tín, chiến tranh…) Nhưng nó cũng từ từ bóc tách sự thật ra khỏi những lớp vỏ bọc văn hóa hay học thuật sáo rỗng, giúp con người nắm bắt được những gì đang xảy ra với họ, cho họ thấy vấn đề thực sự nằm ở đâu.
Một chân lý mang tính sống còn như vậy vốn đã được biết đến từ lâu, chính là ý tưởng về chủ nghĩa anh hùng (heroism); nhưng trong những thời kỳ học thuật “bình thường”, chúng ta chưa bao giờ nghĩ đến việc đặt “chủ nghĩa anh hùng” lên vị trí xứng đáng của nó, chúng ta ngại phô trương nó, ngại sử dụng nó như một khái niệm trung tâm để giải thích hành vi con người. Tuy nhiên, tâm trí đại chúng luôn biết nó quan trọng đến mức nào: như William James – nhà tư tưởng lỗi lạc am hiểu hầu hết mọi khía cạnh của nhân sinh – đã nhận xét: “bản năng chung của nhân loại về thực tại… luôn coi thế giới về cơ bản là một sân khấu cho tính anh hùng.” Không chỉ người thường mới cảm nhận được điều này, mà các triết gia ở mọi thời đại, và trong văn hóa của chúng ta đặc biệt là Emerson và Nietzsche, cũng biết – đó là lý do tại sao chúng ta vẫn rung động trước họ: chúng ta thích được nhắc nhở rằng tiếng gọi trung tâm, nhiệm vụ chính của chúng ta trên hành tinh này, là trở thành anh hùng.
Có một cách nhìn rất thú vị và bao quát về lịch sử trí tuệ hiện đại: Nếu chúng ta xem xét toàn bộ sự phát triển của khoa học xã hội (kể từ thời Karl Marx) và tâm lý học (kể từ thời Sigmund Freud), chúng ta sẽ thấy rằng tất cả đều đại diện cho một nỗ lực khổng lồ nhằm chi tiết hóa và làm sáng tỏ một vấn đề duy nhất: chủ nghĩa anh hùng của con người. Quan điểm này thể hiện sự nghiêm túc trong cuộc thảo luận của chúng ta: giờ đây chúng ta đã có nền tảng khoa học để tìm hiểu về bản chất thực sự của chủ nghĩa anh hùng và vị trí của nó trong đời sống con người. Nếu “bản năng chung của nhân loại về thực tại” là đúng, thì chúng ta đã đạt được kỳ tích đáng kể trong việc phơi bày thực tại đó theo một cách khoa học.
Một trong những khái niệm then chốt để chúng ta có thể hiểu được khao khát trở thành anh hùng của con người là ý niệm về “tính ái kỷ” (narcissism). Nhà tâm lý học Erich Fromm đã nhắc nhở chúng ta một cách rất rõ ràng rằng ý tưởng này là một trong những đóng góp vĩ đại và có ảnh hưởng sâu sắc nhất của Freud. Freud đã khám phá ra rằng mỗi chúng ta, trong sâu thẳm tâm lý, đều đang diễn lại bi kịch của chàng Narcissus trong thần thoại Hy Lạp: chúng ta quá đắm chìm với bản thân mình, vô thức hoặc cố tình tự cho mình là trung tâm vũ trụ. Nếu chúng ta có quan tâm đến ai đó, thì thực tế, người đầu tiên và trên hết mà chúng ta quan tâm vẫn là chính mình. Như Aristotle từng nói: may mắn là khi gã đứng cạnh bạn bị trúng tên. Suốt 2.500 năm lịch sử, bản chất ái kỷ này của con người không hề thay đổi. Đối với hầu hết chúng ta, phần lớn thời gian thì đây vẫn là định nghĩa cơ bản về may mắn. Một trong những khía cạnh tồi tệ nhất của chủ nghĩa ái kỷ là chúng ta cảm thấy rằng hầu như tất cả mọi người đều có thể hy sinh ngoại trừ chính bản thân mình. Như Emerson từng nói, chúng ta nên chuẩn bị tâm thế để sẵn sàng tái tạo cả thế giới từ chính bản thân mình ngay cả khi không còn ai khác tồn tại. Suy nghĩ đó làm chúng ta sợ hãi; chúng ta không biết mình có thể làm điều đó như thế nào nếu không có người khác – nhưng sâu thẳm bên trong, nguồn lực cơ bản vẫn ở đó: chúng ta có thể tự mình tồn tại nếu cần thiết, nếu chúng ta có thể tin tưởng vào chính mình như Emerson mong muốn. Dù cảm xúc có thể yếu đuối, nhưng cơ thể sinh học của chúng ta sẽ chiến đấu điên cuồng để sinh tồn bằng mọi giá, bất kể bao nhiêu người xung quanh chúng ta đã chết. Cơ thể của chúng ta sẵn sàng lấp đầy thế giới một mình, ngay cả khi lý trí của chúng ta co rúm lại trước ý nghĩ đó. Tính ái kỷ này là thứ giữ cho những người đàn ông hành quân vào làn đạn trực diện trong các cuộc chiến tranh: tận đáy lòng, một người không cảm thấy rằng mình sẽ chết, anh ta chỉ cảm thấy tiếc cho người bên cạnh mình khi thấy họ ngã xuống. Freud giải thích hiện tượng này bằng một phát hiện chấn động: Vô thức không biết đến cái chết hay thời gian. Trong những ngóc ngách sâu thẳm nhất về mặt sinh lý và hữu cơ của cơ thể, con người luôn cảm thấy mình là bất tử.
Tất cả những quan sát về việc con người “yêu bản thân thái quá” hay “coi mình là trung tâm” hoàn toàn không ám chỉ sự dối trá, xảo quyệt hay mưu mô của con người. Con người dường như không thể “ngăn được” sự ích kỷ của mình; nó dường như đến từ bản chất động vật của chúng ta. Qua vô số thời đại tiến hóa, sinh vật đã phải bảo vệ sự toàn vẹn của chính nó; nó có bản sắc sinh lý riêng và luôn nỗ lực để bảo tồn bản sắc đó. Đây là một trong những vấn đề chính trong cấy ghép nội tạng: cơ thể tự bảo vệ mình trước vật chất lạ, ngay cả khi đó là một quả tim mới giúp nó duy trì sự sống. Chất nguyên sinh tự bao bọc và gìn giữ những gì thuộc về chính nó, tự nuôi dưỡng mình chống lại thế giới, chống lại những sự xâm lấn xâm phạm tính toàn vẹn của nó. Nó dường như tận hưởng những nhịp đập của riêng mình, mở rộng ra thế giới và nuốt chửng những mảnh vỡ của thế giới ấy. Nếu bạn lấy một sinh vật mù và câm rồi trao cho nó khả năng tự ý thức và một cái tên, nếu bạn làm cho nó tách biệt khỏi tự nhiên và biết một cách có ý thức rằng nó là độc nhất, thì bạn sẽ có tính ái kỷ. Ở con người, bản sắc sinh lý, cảm giác về quyền lực và hoạt động đã trở nên có ý thức.
Ở người, mức độ ái kỷ thông thường gắn liền và không thể tách rời khỏi lòng tự trọng, khỏi nhận thức cơ bản về giá trị bản thân. Chủ yếu từ Alfred Adler, chúng ta đã học được rằng điều mà con người cần nhất là cảm thấy an toàn với lòng tự trọng của mình. Nhưng con người không chỉ là một khối chất nguyên sinh nhàn rỗi mù quáng, mà là một sinh vật có tên gọi, sống trong một thế giới của các biểu tượng và giấc mơ chứ không chỉ là vật chất. Nhận thức về giá trị bản thân của chúng ta được cấu thành một cách mang tính biểu tượng, tính ái kỷ của chúng ta nuôi dưỡng bằng các biểu tượng, bằng một ý tưởng trừu tượng về giá trị của riêng mình, một ý tưởng được tạo thành từ âm thanh, từ ngữ và hình ảnh, trong không khí, trong tâm trí, trên giấy. Và điều này có nghĩa là niềm khao khát tự nhiên của con người đối với hoạt động của cơ thể, những khoái cảm của việc sáp nhập và mở rộng, có thể được nuôi dưỡng vô hạn trong lĩnh vực của các biểu tượng và do đó đi vào bất tử. Một sinh vật đơn lẻ có thể mở rộng vào các chiều kích của thế giới và thời gian mà không cần cử động một chi vật lý nào; nó có thể đưa sự vĩnh cửu vào trong chính nó ngay cả khi nó đang trút hơi thở cuối cùng.
Trong thời thơ ấu, tính ái kỷ và lòng tự trọng ít bị che đậy nhất. Đứa trẻ không xấu hổ về những gì nó cần và muốn nhất. Toàn bộ cơ thể của nó hét lên những đòi hỏi của tính ái kỷ tự nhiên. Và những đòi hỏi này có thể biến thời thơ ấu thành địa ngục đối với người lớn, đặc biệt là khi có vài đứa trẻ cùng lúc cạnh tranh cho những đặc quyền mở rộng bản thân vô hạn, cái mà chúng ta có thể gọi là “tầm quan trọng mang tính vũ trụ”. Thuật ngữ này không nên bị xem nhẹ, vì đây là nơi cuộc thảo luận mà chúng ta đang hướng tới. Chúng ta thường nói một cách thản nhiên về “sự ganh đua giữa anh chị em ruột”, như thể đó là một loại sản phẩm phụ của quá trình trưởng thành, cho rằng đó chỉ là một chút cạnh tranh và ích kỷ của những đứa trẻ được nuông chiều, chưa lớn khôn để học được bản tính xã hội hào hiệp/biết sẻ chia nhường nhịn. Nhưng vấn đề này quá rộng và dai dẳng để bị coi là một tính xấu tạm thời, nó thể hiện trái tim của con người: khao khát được nổi bật, được là “người duy nhất” trong tạo hóa. Khi bạn kết hợp tính ái kỷ tự nhiên với nhu cầu cơ bản về lòng tự trọng, bạn có được một sinh vật mà để có thể tồn tại một cách khỏe mạnh thì nó buộc phải cảm thấy mình là một đối tượng có giá trị hàng đầu: đứng nhất trong vũ trụ, đại diện trong chính mình cho toàn bộ sự sống. Đây là lý do mà anh chị em trong nhà suốt ngày cạnh tranh với nhau và những cạnh tranh này đủ khốc liệt để gây ra những tổn thương đau đớn: đứa trẻ không thể cho phép mình là người đứng thứ hai hoặc bị hạ thấp giá trị, chứ đừng nói đến việc bị bỏ rơi. “Mẹ cho anh ấy miếng kẹo to nhất!” “Mẹ cho anh ấy nhiều nước trái cây hơn!” “Đây, thêm một chút nữa nhé.” “Bây giờ chị ấy lại có nhiều nước trái cây hơn con!” “Mẹ cho chị ấy đốt lửa trong lò sưởi mà không cho con.”
“Được rồi, con đốt một mẩu giấy đi.” “Nhưng mẩu giấy này nhỏ hơn mẩu giấy chị ấy đốt.” Và cứ thế mãi. Một loài động vật tìm kiếm cảm giác về giá trị của mình thông qua các biểu tượng buộc phải so sánh bản thân từng li từng tí với những người xung quanh, để đảm bảo mình không bị thua kém. Sự ganh đua giữa anh chị em là một vấn đề nghiêm trọng phản ánh điều kiện cơ bản của con người: không phải là trẻ con độc ác, ích kỷ hay hống hách. Mà là chúng thể hiện một cách quá công khai định mệnh bi thảm của con người: chúng ta phải liên tục tìm kiếm bằng chứng để chứng minh rằng mình là một đối tượng có giá trị hàng đầu trong vũ trụ; chúng ta phải nổi bật, phải là một anh hùng, phải có đóng góp to lớn nhất có thể cho cuộc sống nơi trần thế, chứng tỏ rằng chúng ta quan trọng hơn bất cứ thứ gì hay bất cứ ai khác.
Khi chúng ta hiểu rõ việc con người phấn đấu trở thành anh hùng là tự nhiên đến mức nào, nó ăn sâu vào cấu trúc tiến hóa và sinh học của anh ta ra sao, anh ta thể hiện nó công khai như thế nào khi còn là một đứa trẻ, thì chúng ta lại càng cảm thấy kì lạ thay khi hầu hết mọi người, về mặt ý thức, lại không biết mình thực sự muốn và cần gì. Dù sao thì trong văn hóa của chúng ta, đặc biệt là trong thời hiện đại, chủ nghĩa anh hùng dường như là một khái niệm quá lớn đối với chúng ta, hoặc chúng ta quá nhỏ bé so với nó. Hãy nói với một chàng trai trẻ rằng anh ta có quyền trở thành một anh hùng và anh ta sẽ đỏ mặt. Chúng ta ngụy trang cuộc đấu tranh của mình bằng cách tích lũy những con số trong sổ tiết kiệm để phản ánh một cách riêng tư cảm thức về giá trị anh hùng của mình. Hoặc bằng cách chỉ có một ngôi nhà tốt hơn một chút so với những căn nhà khác trong khu phố, một chiếc xe lớn hơn, những đứa con thông minh hơn. Nhưng bên trong, chúng ta vẫn cảm thấy nhức nhối nỗi đau đáu về sự đặc biệt mang tầm vũ trụ, bất kể chúng ta che đậy nó bằng những mối quan tâm ở phạm vi nhỏ hơn như thế nào. Thỉnh thoảng có người thừa nhận rằng anh ta coi trọng chủ nghĩa anh hùng của mình một cách nghiêm túc, điều này khiến hầu hết chúng ta ớn lạnh, cũng như Nghị sĩ Hoa Kỳ Mendel Rivers, người đã tìm cách rót ngân sách cho bộ máy quân sự dưới quyền và tuyên bố rằng mình là người quyền lực nhất kể từ Julius Caesar. Chúng ta có thể rùng mình trước sự thô thiển của chủ nghĩa anh hùng trần thế, của cả Caesar và những kẻ bắt chước ông ta, nhưng lỗi không phải ở họ, mà là ở cách xã hội thiết lập hệ thống anh hùng của nó và ở những người mà hệ thống đó cho phép đóng vai các anh hùng. Sự thôi thúc trở thành anh hùng là tự nhiên, và thừa nhận sự tồn tại của thôi thúc đó bên trong mình là trung thực. Nếu mọi người đều thừa nhận điều đó, có lẽ nó sẽ giải phóng một lực khủng khiếp đến mức tàn phá các xã hội như hiện nay.
Sự thật thì đây chính là bản chất của xã hội và luôn luôn là như vậy: một hệ thống các hành động mang tính biểu tượng, một cấu trúc bao gồm các địa vị và vai trò, phong tục và quy tắc ứng xử, được thiết kế để phục vụ như một phương tiện cho chủ nghĩa anh hùng trần thế. Mỗi kịch bản đều có nét độc đáo riêng, mỗi nền văn hóa có một hệ thống anh hùng khác nhau. Cái mà các nhà nhân chủng học gọi là “tính tương đối văn hóa” thực chất là tính tương đối của các hệ thống anh hùng trên khắp thế giới. Nhưng mỗi hệ thống văn hóa là một sự kịch tính hóa của những hành động anh hùng trần thế; mỗi hệ thống cắt đặt các vai trò cho các màn trình diễn ở những mức độ anh hùng khác nhau: từ tính anh hùng “cao cả” của Churchill, Mao Trạch Đông, hay Đức Phật, đến tính anh hùng “thấp bé” của người thợ mỏ, người nông dân, vị linh mục giản dị; tính anh hùng mộc mạc, thường ngày, trần thế được tạo nên bởi những đôi bàn tay lao động gân guốc dẫn dắt gia đình vượt qua đói nghèo và bệnh tật.
Không quan trọng liệu hệ thống anh hùng văn hóa đó mang tính huyền ảo, tôn giáo và nguyên thủy thuần tuý hay là thế tục, khoa học và văn minh. Dù nó biểu hiện như thế nào, mang bộ mặt gì, thì nó vẫn là một hệ thống anh hùng mang tính thần thoại, trong đó con người phục vụ để đạt được cảm giác về giá trị hàng đầu, về sự đặc biệt mang tầm vũ trụ, về sự hữu ích tột bực đối với tạo hóa, về ý nghĩa trường tồn. Người ta đạt được cảm giác này bằng cách tạo ra một vị trí trong tự nhiên, bằng cách xây dựng một công trình phản ánh giá trị con người: một ngôi đền, một thánh đường, một cột totem, một tòa nhà chọc trời, một gia đình trải qua ba thế hệ. Con người hy vọng và tin tưởng rằng những thứ mà họ tạo ra trong xã hội mang giá trị và ý nghĩa lâu dài, rằng những sản phẩm đó của con người có thể trường tồn, có khả năng lấn át cái chết và sự mục nát, rằng con người và các sản phẩm của anh ta có giá trị. Norman O. Brown nói rằng xã hội phương Tây kể từ thời Newton, bất kể nó tuyên bố là khoa học hay thế tục đến mức nào, vẫn mang tính “tôn giáo” như bất kỳ xã hội nào khác, thì đây chính là ý của ông: xã hội “văn minh” là một niềm tin đầy hy vọng và mang tính phản kháng rằng khoa học, tiền bạc và hàng hóa làm cho con người có giá trị hơn bất kỳ loài động vật nào khác. Theo nghĩa này, mọi thứ con người làm đều mang tính tôn giáo và mang tính anh hùng, nhưng lại có nguy cơ là hư cấu và dễ sai lầm.
Câu hỏi quan trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra cho mình lúc đó chỉ đơn giản là: chúng ta ý thức được bao nhiêu phần rằng những gì mình đang làm chính là để đạt được cảm giác mình là anh hùng? Tôi nghĩ rằng nếu mọi người đều trung thực thừa nhận sự thôi thúc trở thành anh hùng của mình, đó sẽ là một sự giải phóng chân lý có sức tàn phá. Nó sẽ khiến con người đòi hỏi nền văn minh phải công nhận giá trị con người vốn có của họ, như những cá nhân có đóng góp độc đáo cho sự sống trong vũ trụ. Các xã hội hiện đại của chúng ta sẽ xoay sở thế nào để thỏa mãn một nhu cầu trung thực như vậy mà không bị rung chuyển đến tận nền móng? Chỉ những xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là “nguyên thủy” mới cung cấp cảm giác này cho tất cả các thành viên của họ. Các nhóm thiểu số trong xã hội công nghiệp ngày nay, những người hô hào đòi tự do và phẩm giá con người, thực sự đang đòi hỏi một cách vụng về để được trao cho một cảm giác về tính anh hùng cơ bản mà lịch sử đã tước đoạt của họ. Đây là lý do tại sao những yêu sách khăng khăng của họ lại rắc rối và gây khó chịu đến vậy: làm sao chúng ta thực hiện được một điều “vô lý” như thế trong những khuôn khổ mà xã hội hiện đang được thiết lập? “Họ đang đòi hỏi điều không thể” là cách chúng ta thường dùng để diễn tả sự bối rối của mình.
Nhưng không phải ai cũng dễ dàng thừa nhận nhu cầu trở thành anh hùng của chính mình, ngay cả chính những người suốt ngày đưa ra những yêu sách, muốn vị thế của mình được công nhận. Đó chính là vấn đề hóc búa. Trong những cuộc thảo luận tiếp theo, chúng ta sẽ thấy rằng để có thể ý thức một cách rõ ràng rằng những việc chúng ta đang làm là để đạt được cảm giác mình là anh hùng, chúng ta phải tự phân tích chính của cuộc đời. Mọi thứ gây đau đớn và khiến chúng ta trăn trở mà các thiên tài phân tâm học và thiên tài tôn giáo đã khám phá ra về con người đều xoay quanh nỗi kinh hoàng khi phải thừa nhận rằng những gì một người đang làm là để có được lòng tự trọng. Đây là lý do tại sao chủ nghĩa anh hùng của con người là một thôi thúc mù quáng thiêu đốt con người; ở những người nồng nhiệt và giàu đam mê, đó là tiếng gào thét đòi vinh quang, nó thiếu tính phê phán và mang tính phản xạ như tiếng hú của một con chó. Trong những đám đông những con người thụ động hơn, tầm thường hơn, nó được ngụy trang dưới dạng những lời khiêm tốn, họ vừa than vãn vừa tuân theo những vai trò mà xã hội gán cho hành vi anh hùng của họ, và cố gắng tìm kiếm kiếm sự thăng tiến trong hệ thống: mặc những bộ đồng phục tiêu chuẩn – nhưng vẫn cho phép bản thân nổi bật lên, dù chỉ một chút và thật an toàn, với một dải ruy băng nhỏ hoặc một bông hoa cài áo đỏ, nhưng không phải bằng cả cái đầu và đôi vai.
Nếu chúng ta bóc trần lớp ngụy trang khổng lồ này, những rào cản kìm hãm các kỹ thuật tìm kiếm vinh quang của con người, chúng ta sẽ đến với câu hỏi có tiềm năng giải phóng nhất, vấn đề chính của đời sống con người: Hệ thống anh hùng văn hóa đang được áp dụng để duy trì và thúc đẩy con người thực sự đúng đến mức nào về mặt thực nghiệm? Chúng ta đã đề cập đến khía cạnh xấu xa trong khát vọng hướng tới chủ nghĩa anh hùng vũ trụ của con người, nhưng rõ ràng nó cũng có mặt cao thượng của nó nữa. Con người sẽ hy sinh mạng sống vì đất nước, xã hội, gia đình. Anh ta sẽ chọn lao mình vào làn đạn để cứu đồng đội; anh ta hào hiệp và sẵn sàng hy sinh. Nhưng anh ta phải cảm thấy và tin rằng những gì mình đang làm là thực sự mang tính anh hùng, có ý nghĩa lâu dài và mang mục đích cao cả. Cuộc khủng hoảng của xã hội hiện đại chính là nằm ở việc giới trẻ cảm thấy rằng kế hoạch hành động mà nền văn hóa của họ đã thiết lập không còn mang chút tính hào hùng nào. Họ không tin rằng nó đúng về mặt thực nghiệm đối với các vấn đề của cuộc sống và thời đại của họ. Chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng về chủ nghĩa anh hùng và nó chạm đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội: những người từ bỏ chủ nghĩa anh hùng đại học, chủ nghĩa anh hùng kinh doanh và sự nghiệp, chủ nghĩa anh hùng hành động chính trị; sự trỗi dậy của các phản anh hùng, những người muốn trở thành anh hùng theo cách riêng của họ hoặc giống như Charles Manson với “gia đình” đặc biệt của hắn, những người mà hành động anh hùng mang tính đày đoạ của họ đả kích vào hệ thống vốn đã không còn đại diện cho chủ nghĩa anh hùng theo cách hiểu cũ. Điều gây hoang mang nhất của thời đại chúng ta, sự sục sôi của thời đại này nằm ở việc, dù nó là tốt hay xấu thì giới trẻ cũng đã cảm nhận được một sự thật lịch sử-xã hội to lớn: rằng cũng giống như việc có tồn tại những sự hy sinh vô ích trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa, thì cũng có tồn tại thứ chủ nghĩa anh hùng đê hèn trong xã hội: đó có thể là chủ nghĩa anh hùng tàn phá độc ác của nước Đức thời Hitler hoặc chủ nghĩa anh hùng tầm thường và ngớ ngẩn trong việc mua sắm và phô trương hàng hóa tiêu dùng, sự tích lũy tiền bạc và đặc quyền đặc trưng cho toàn bộ lối sống, cả tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Và cuộc khủng hoảng của xã hội tất nhiên cũng là cuộc khủng hoảng của tôn giáo có tổ chức: tôn giáo không còn mang giá trị của một hệ thống anh hùng nữa, và vì vậy giới trẻ khinh miệt nó. Khi văn hóa truyền thống bị coi là vô nghĩa, giả dối và không còn mang tính anh hùng nữa, thì giáo hội ủng hộ cho nền văn hoá đó cũng tự đánh mất uy tín của mình. Mặt khác, nếu giáo hội chọn khăng khăng bám chấp vào chủ nghĩa anh hùng đặc biệt của riêng mình thì nó bắt buộc phải đưa ra những hành động dứt khoát và đáng kể để phản kháng, chống lại văn hóa, chiêu mộ những người trẻ trở thành những kẻ phản anh hùng, chống lại lối sống của xã hội mà họ đang sống. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôn giáo trong thời đại chúng ta.
Kết luận
Trong phần giới thiệu ngắn gọn này, tôi đã cố gắng gợi ý rằng vấn đề về chủ nghĩa anh hùng là vấn đề trung tâm của đời sống con người, rằng nó đi sâu vào bản tính con người hơn bất cứ điều gì khác bởi vì nó dựa trên tính ái kỷ sinh học và nhu cầu về lòng tự trọng của đứa trẻ với tư cách là điều kiện tiên quyết cho cuộc sống của nó. Bản thân xã hội là một hệ thống anh hùng được luật hóa, có nghĩa là dù ở bất kỳ đâu thì xã hội cũng là một huyền thoại sống – một câu chuyện huyền thoại được hiện thực hoá mỗi ngày – về ý nghĩa của cuộc sống con người, một sự kiến tạo ý nghĩa đầy thách thức – thuyết phục con người tin rằng cuộc đời của thực sự có ý nghĩa và có giá trị. Do đó, mọi xã hội đều là một “tôn giáo” dù nó có nghĩ như vậy hay không: “tôn giáo” Xô viết và “tôn giáo” Mao trạch đông cũng mang tính tôn giáo như “tôn giáo” khoa học và “tôn giáo” tiêu dùng, bất kể họ có cố gắng ngụy trang bằng cách loại bỏ các ý tưởng tôn giáo và tâm linh khỏi cuộc sống của mình như thế nào đi chăng nữa. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, chính Otto Rank là người đã chỉ ra bản chất tôn giáo về mặt tâm lý này của mọi sáng tạo văn hóa của con người; và gần đây hơn, ý tưởng này đã được Norman O. Brown hồi sinh trong cuốn Life Against Death (Sự sống chống lại cái chết) và bởi Robert Jay Lifton trong cuốn Revolutionary Immortality (Sự bất tử cách mạng). Nếu chúng ta chấp nhận những gợi ý này, thì chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đang đối mặt với vấn đề phổ quát của con người; và chúng ta phải sẵn sàng đào sâu vào vấn đề này một cách trung thực nhất có thể, sẵn sàng để bị làm cho kinh ngạc bởi sự tự phơi bày bản chất thật của con người ở mức độ tối đa mà những bộ óc với trí tuệ đỉnh cao nhất của nhân loại cho phép. Hãy cùng bắt đầu suy nghĩ này với Kierkegaard và dẫn dắt nó qua lăng kính của Freud, để xem sự tiến bộ của khoa học cùng với những khám phá mới giúp bóc trần những bí ẩn của tâm trí con người trong 150 năm qua sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Nếu sự trung thực sắc sảo của một vài cuốn sách có thể thay đổi thế giới ngay lập tức, thì năm tác giả vừa được đề cập ở trên hẳn đã làm rung chuyển các quốc gia đến tận nền móng. Nhưng vì mọi người vẫn đang tiếp tục như thể những chân lý cốt yếu về con người chưa hề tồn tại, nên cần phải thêm một “quả tạ” nữa vào cán cân của quá trình nhân loại tự lột bỏ lớp mặt nạ của chính mình. Suốt hai ngàn năm trăm năm qua, chúng ta đã hy vọng và tin rằng nếu nhân loại có thể tự phơi bày sự thật trần trụi về chính mình, tất cả mọi người có thể hiểu rõ những động cơ thầm kín mà chúng ta giấu kỹ như “bảo vật” của chính mình, thì bằng cách nào đó nó sẽ làm nghiêng cán cân của vạn vật theo hướng có lợi cho mình.



Bình luận về bài viết này